エピソード

  • Pháp : Các thành phố ven biển không muốn cho du thuyền cập bến?
    2025/09/12
    Theo khảo sát gần đây nhân kỳ Hội chợ Du lịch Thế giới 2025 tổ chức tại Paris, du lịch bằng máy bay hay bằng tàu thủy đều đang gia tăng. Đối với những điểm đến xa xôi, hàng không vẫn là phương tiện di chuyển phổ biến nhất. Bên cạnh đó, ngành du lịch trên biển thu hút được nhiều khách hàng nhờ có giá cả phải chăng hơn, cho các chuyến đi trong vòng một hoặc hai tuần. Để có thể giảm giá, các hãng du lịch thường khai thác những chiếc du thuyền khổng lồ (từ 3.000 đến 7.000 hành khách), với giá khoảng 1.650 euro cho mỗi người trong vòng 7 ngày, ở hạng trung bình. Đối với các loại du thuyền hạng sang với nhiều dịch vụ cao cấp, số hành khách không đông nhưng giá lại cao hơn nhiều : từ 4.500 cho đến 10.000 euro cho mỗi hành khách. Tại châu Âu, các tour du lịch bằng thuyền thường ghé qua các nước Hy Lạp, Croatia, Malta, Ý, các quần đảo Tây Ban Nha cũng như miền duyên hải nước Pháp. Tuy nhiên, nhiều thành phố cảng ven bờ Địa Trung Hải đều tìm cách hạn chế tối đa các du thuyền lớn, bị cho là gây nhiều tác hại đến môi trường. Trường hợp gần đây nhất là thành phố Nice, ở miền nam nước Pháp. Sau Venise (2021) và Barcelona (2023), đến phiên Hội đồng thành phố Nice vào mùa xuân năm 2025 đã ban hành lệnh cấm các thuyền lớn cập bến cảng thành phố. Biện pháp này nhằm mục đích tránh du lịch quá tải, và quan trọng hơn nữa là hạn chế tối đa nạn ô nhiễm do các du thuyền gây ra. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, bà Juliette Chesnel-Le Roux, một dân biểu Đảng Xanh và đồng thời là thành viên Hội đồng thành phố Nice đánh giá đây là một bước tiến quan trọng cho các nhà bảo vệ môi trường : Juliette Chesnel-Le Roux : Đây là một thắng lợi cho tất cả những người đã nỗ lực đấu tranh bảo vệ môi trường trong nhiều năm qua. Ngoài các loại khí thải có hại cho sức khỏe, nhiên liệu dùng cho động cơ du thuyền lớn còn thường để lại nhiều chất cặn khó xử lý, dễ làm cho nước biển bị ô nhiễm. Loại dầu nhớt dành cho du thuyền hoặc các động cơ nhà máy thuộc vào hàng « nhiên liệu nặng », có hàm lượng lưu huỳnh cao hơn gấp 10 lần so với loại nhiên liệu thông thường dùng trong đời sống thường ngày. Khí thải từ các du thuyền lớn dĩ nhiên sẽ tác động trực tiếp đến đời sống của cư dân sống trong khu vực bến cảng thành phố. Một điều khác nữa cần lưu ý là khi thả neo ở bến cảng, các du thuyền thường không bao giờ tắt các động cơ để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của khách trên thuyền. Và như vậy, những chiếc tàu khổng lồ này khi cập bến cũng gây ô nhiễm không kém gì những lúc đang di chuyển. Do dừng lại ở một chỗ, du thuyền gây ô nhiễm cho các khu vực xung quanh như các bãi cát miền duyên hải. Ngoài ra, Địa Trung Hải là một vùng biển hầu như khép kín, không mở rộng như Đại Tây Dương. Còn theo cô Hélène Granouillac, thành viên sáng lập hiệp hội Terre Bleue (Trái đất xanh), các chiếc du thuyền lớn khi thả mỏ neo ở bến cảng dễ gây thiệt hại cho thảm cỏ biển (posidonia) ở dưới mặt nước. Được gọi nôm na là « cỏ lươn » do có hình dáng thon dài, loại cỏ biển này không giống như rong tảo, vì có hẳn gốc rễ và thân lá. Tuy không mênh mông như « thảo nguyên », nhưng các thảm thực vật dưới nước này, thực chất là nơi trú ẩn và sinh sản cho khá nhiều loài động vật. Do vậy, quyết định của Hội đồng thành phố Nice không cho các thuyền lớn cập bến, thả neo, đã được nhiều người dân địa phương hưởng ứng. Tuy nhiên, thành phố Nice vẫn tiếp đón những chiếc du thuyền cỡ trung bình với tối đa 900 hành khách. Các loại tàu này ít gây ô nhiễm hơn và dành cho thành phần khách du lịch có tiền. Thành phố Nice buộc phải nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang bị cho bến cảng những hệ thống cắm điện, để mỗi lần các chiếc du thuyền cập bến, tắt hết mọi động cơ nhưng vẫn có đủ điện để xài. Trong năm nay, Nice dự trù tiếp đón khoảng 120 du thuyền cỡ trung bình, với sức chứa khoảng 700-900 hành khách mỗi chuyến. Hội đồng thành phố Nice cân nhắc để ...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Pháp : Vì sao giới trẻ không còn muốn kết hôn ?
    2025/09/05
    Hàng năm tại Pháp, có khoảng 240.000 cặp uyên ương tổ chức đám cưới. So với bốn thập niên về trước, con số này đã giảm đi gần một nửa. Nếu như đa số người Pháp vẫn gắn bó với giá trị truyền thống và biểu tượng của hôn nhân, thì ngược lại, các bạn trẻ ở độ tuổi 20-35 sống ở Pháp, càng tỏ ra ngần ngại khi nhắc đến chuyện làm đám cưới. Tờ báo Le Figaro trích dẫn một cuộc khảo sát do công ty tư vấn Ymanci thực hiện hồi đầu tháng 06/2025 cho thấy : 45% giới trẻ dưới 35 tuổi không muốn làm đám cưới vì phí tổn quá cao. Ngoài gánh nặng tài chính, các bạn trẻ cũng lo ngại về vấn đề ly hôn, vì thực tế cho thấy trong hai thập niên gần đây ở Pháp, khoảng một nửa các cặp thành hôn (44% theo số liệu của cơ quan nghiên cứu dân số INED) kết thúc bằng một vụ ly dị. Hiện nay tại Pháp, một cặp uyên ương phải chi trung bình gần 12.000 euro (tức khoảng 5 hoặc 6 tháng lương) để tổ chức đám cưới. Tại các nước Anh-Mỹ, chi phí này còn cao hơn gấp đôi : tính trung bình là 25.000 euro tại Vương quốc Anh hay 35.000 đô la để tổ chức đám cưới tại Hoa Kỳ. Ngoài chi phí tài chính và đôi khi áp lực từ phía gia đình, giới trẻ Pháp thời nay còn phải chịu áp lực vô hình trên các mạng xã hội. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, nhà xã hội học Florence Maillochon, làm việc tại Trung tâm Quốc gia nghiên cứu khoa học CNRS, đồng thời là tác giả quyển sách về hôn nhân tại Pháp ("La passion du mariage" Nhà xuất bản Presse Universitaire de France) đánh giá giới trẻ thời nay trước khi thành hôn phải tính đến chuyện chụp ảnh và thu hình video ngày cưới cho mạng xã hội. Florence Maillochon : "Quả thật là mạng xã hội là nơi mà người dùng thường thể hiện những khía cạnh tốt đẹp nhất của bản thân. Vì thế cho nên, các cặp làm đám cưới thường phải quan tâm đến mọi thứ, không thể nào bỏ sót bất cứ điều gì, kể cả những chi tiết nhỏ nhất. Về mặt tâm lý, ai ai cũng muốn ngày cưới của mình diễn ra một cách hoàn hảo. Điều này đã có từ lâu, nhưng lại phát triển rất mạnh kể từ khi có mạng xã hội. Việc tổ chức đám cưới thường đi đôi với số lượng khách mời. Con số nảy đã tăng đáng kể trong vài thập niên qua. Vào những năm 1980, mỗi đám cưới ở Pháp trung bình có khoảng 70 khách mời. Ngày nay, con số trung bình là khoảng 130. Trên số hàng trăm ngàn đám cưới mỗi năm, chỉ có khoảng 5% là đám cưới lớn, với từ 200 đến 300 khách. Càng có nhiều khách mời, chi phí lễ cưới càng cao. Trước kia, đám cưới ở các vùng nông thôn Pháp chỉ đơn thuần là những bữa ăn gia đình thịnh soạn hơn ngày thường, ngay sau lễ nhà thờ. Việc làm đám cưới, tiệc rượu hay bữa ăn tối, thường được tổ chức tại nhà, hay trong phòng lễ tân tại các huyện xã. Sự khác biệt lớn bây giờ là mọi thứ đều diễn ra ở bên ngoài. Vì vậy, mới sinh ra các nhà cung cấp dịch vụ đám cưới. Có thể nói, tổ chức đám cưới thời nay giống như tổ chức một sự kiện, khó thể bỏ qua cách trình bày, dàn dựng. Để tránh làm hỏng ngày cưới, các gia đình phải chịu đầu tư ngày càng nhiều. Trong một số trường hợp, để hạn chế chi phí, chúng ta có thể giảm bớt số khách mời, tiết kiệm một phần ngân sách, rồi chi nhiều hơn để có được một dịch vụ ăn uống tốt hơn. Dịch vụ ăn uống thường chiếm khoảng 50% chi phí của đám cưới." So với các thế hệ trước, giới trẻ ở Pháp thời nay đã thay đổi quan niệm về hôn nhân và gia đình. Hôn nhân không còn là điều bắt buộc khi giới trẻ có thể sống chung với nhau nhiều năm. Các bạn trẻ dưới 35 tuổi cũng được giáo dục theo nguyên tắc nam nữ bình quyền và họ cũng thường quan niệm rằng hôn thú không phải là minh chứng quan trọng nhất trong tình yêu và việc chi tiêu nhiều để làm đám cưới cũng không bảo đảm hôn nhân sẽ được bền lâu hơn. Tuy nhiên hôn nhân không chỉ đơn thuần là chuyện đời tư của từng cá nhân, mà còn phản ánh nhiều hình tượng khuôn mẫu trong xã hội thời nay. Đó là nhận xét của ông Stéphane Seban, nhà sáng ...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Một Trăm Ngày Đầu « thận trọng » của Đức Lêô XIV
    2025/09/03
    Ngày 16 tháng 8 năm 2025, đánh dấu một trăm ngày Đức Lêô XIV được bầu làm giáo hoàng. Nếu phải thực hiện một bản sơ kết 100 ngày đầu trong vai trò người đứng đầu Giáo hội Công giáo, giới quan sát ghi nhận sẽ khó thống kê được nhiều, thậm chí có thể nói ngài là một vị giáo hoàng trầm lặng, như một người Mỹ thầm lặng. Chưa có chuyến đi xa nào ra khỏi thành Vatican, ngoại trừ việc lặp lại truyền thống của các giáo hoàng, đi nghỉ hè ở Castel Gandolfo, trong tháng Bảy và tháng Tám. Không có phát biểu gây chú ý của báo chí. Không có cử chỉ nào gây sốt trong công chúng. Phải chăng, cái bóng quá lớn của những vị tiền nhiệm gần nhất của ngài, Gioan Phao-lô II, Bênêđíctô XVI và Phanxicô, đang che phủ những ngày đầu của vị giáo hoàng đến từ Chicago ? Chậm mà chắc ... Người Roma khi nói về các giáo hoàng thường có nhận xét, « sau một vị giáo hoàng mập, là một vị giáo hoàng ốm ». Đức Lêô XIV là người mảnh khảnh nhưng mang dáng dấp thể thao năng động. Ngài sẽ bước sang tuổi 70 vào ngày 14 tháng Chín tới. Người ta có thể nói vui là ngài đang bị phủ bóng, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, của những vị tiền nhiệm. Một vị giáo hoàng trí thức như Bênêđíctô XVI, hay những vị « to lớn » về ngoại hình và sức ảnh hưởng trong giáo hội về mục vụ như Gioan Phao-lô II và Phanxicô. Tuy nhiên, « mọi sự đều có thời », Sách Giảng Viên trong Kinh Thánh đã nói. Đức Lêô XIV đã không vội vã thúc đẩy triều đại của mình. Hay theo Nicolas Sénèze, nguyên thông tín viên của nhật báo Công giáo La Croix tại Roma, khi trả lời phỏng vấn trên đài TV5Monde, « Đức Lêô XIV là người rất thận trọng và 100 ngày đầu tiên của ông diễn ra khá hoàn hảo, mà hình ảnh cuộc gặp gỡ với giới trẻ trong khuôn khổ của Năm Thánh giành cho giới trẻ ở ngoại thành Roma là một minh chứng. Về cơ bản, người ta nhận thấy ông có một sự tiếp nối, không muốn cắt đứt ngay với những vị tiền nhiệm hay áp đặt dấu ấn riêng của mình. » Thực vậy, Đức Lêô XIV được bầu lên trong bối cảnh Giáo hội chia rẽ. Ngài được kỳ vọng là một vị giáo hoàng đoàn kết, thậm chí hòa giải. Đức Lêô XIV phân phối lời nói và cử chỉ của mình một cách tiết kiệm và tỉ mỉ, cẩn thận trấn an những người theo truyền thống mà không làm mất lòng những người cấp tiến vốn nhạy cảm với con đường cởi mở do người tiền nhiệm khởi xướng. Vị giáo hoàng mới tìm cách kết hợp sự hiện đại của Đức Lêô XIII, lòng nhiệt thành của Đức Gioan Phaolô II, chiều sâu tâm linh của Đức Bênêđictô XVI, và sự quan tâm đến những người dễ bị tổn thương nhất của Đức Phanxicô. Sự thận trọng này thể hiện qua việc ngài dành thời gian để quan sát, suy nghĩ và lắng nghe. Bài xã luận trên nhật báo La Libre của Bỉ, vào ngày hôm sau của Thánh lễ kết thúc Năm Thánh giành cho Giới Trẻ, đã nhận xét bài giảng của Đức Lêô XIV trước một triệu bạn trẻ đến từ khắp nơi trên thế giới là không mang màu sắc chính trị, nhưng đầy chiều kích tâm linh, chỉn chu và đòi hỏi. Điều đó cho thấy sự lựa chọn của một người biết lắng nghe trong một thế giới ồn ào, giáo hội đầy áp lực. Sau một Phanxicô đơn giản và đầy ý chí là một Lêô thanh thản và lặng yên. Hồng y người Bỉ, Mathieu Dominique, tổng hợp sau cuộc bầu cử “Khi bầu chọn Đức Lêô XIV, chúng tôi muốn tổ chức những không gian mà Đức Phanxicô đã mở ra cho Giáo hội”. Có vẻ như đức giáo hoàng đã lắng nghe những người đã chọn ngài. Cũng như nhiều người, Nicolas Sénèze cho biết : « Tôi trông chờ tông huấn đầu tiên của Đức Lêô XIV trong tháng Chín sắp tới, được dự đoán là sẽ liên quan đến các vấn đề xã hội, nhất là về trí tuệ nhân tạo (AI) cũng như là hệ quả của Trí tuệ nhân tạo đối với việc làm, xã hội v.v... Điều này cho thấy, Đức Lêô XIV vừa đặt mình theo truyền thống Giáo hội vừa đối diện trước những vấn đề rất thời sự ». Tiếp tục hay đoạn tuyệt với người tiền nhiệm ? Điều đầu tiên được nhận thấy là ...
    続きを読む 一部表示
    10 分
  • Ý trở thành nước cộng hòa, một lựa chọn mang tính lịch sử với cộng hưởng bất ngờ ở Bỉ
    2025/08/20
    Từ năm 1947, vào ngày 2 tháng 6 hàng năm, nước Ý tổ chức Festa della Repubblica – Lễ Cộng Hòa. Một ngày mà sự kiện của nó cũng phản ánh tình hình chính trị và kinh tế ở Bỉ. Cộng hòa Ý ra đời như thế nào ? Và sự kiện này có mối liên hệ và điểm tương đồng đặc biệt nào với đất nước bằng phẳng bên kia dãy Alpes ? Cộng hòa Ý được thành lập vào năm 1947 sau cuộc bỏ phiếu trưng cầu dân ý ngày 2 tháng 6 năm 1946. Một bầu cử lịch sử ở Ý vì ba lý do : • Đây là cuộc bầu cử đầu tiên kể từ 1924, năm Benito Mussolino đã giành chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu và thiết lập chế độ độc tài ; • Đây là lần đầu tiên phụ nữ Ý được bỏ phiếu ; • Việc bỏ phiếu không phải là quyền, như ở Bỉ, mà là nghĩa vụ. Phải nói rằng ngoài việc bỏ phiếu để bầu ra đại diện của mình, các công dân Ý phải trả lời một câu hỏi quan trọng vào năm 1946 : Chế độ quân chủ nên được duy trì hay nền Cộng hòa được thành lập ? Một sự chia rẽ bắc-nam giữa những người theo chủ nghĩa cộng hòa và quân chủ, giống như Câu hỏi Hoàng gia Vào thời điểm đó, phải mất hơn một tuần để công bố kết quả đầu tiên. Nhưng vì có đơn kháng cáo, phải đến ngày 18 tháng 6, mười sáu ngày sau, kết quả cuối cùng mới được công bố : Phiếu « thuận » cho nền Cộng hòa đã thắng. Nhưng cuộc trưng cầu dân ý này cho thấy một nước Ý bị chia rẽ trầm trọng về mặt địa lý. Trung bình, có 54% số phiếu bầu ủng hộ nền Cộng hòa. Nhưng hai phần ba dân miền Bắc đã bỏ phiếu cho nền Cộng hòa, và ở miền Nam, tình hình hoàn toàn ngược lại : hai phần ba cử tri ủng hộ chế độ quân chủ. Nói cách khác, Milano và Torino là những người theo chủ nghĩa cộng hòa, Napoli và Palermo là những người theo chủ nghĩa quân chủ, và ở Roma, miền Trung, tỷ lệ này là 50/50. Một sự chia rẽ Bắc – Nam ở Ý tương tự như sự chia rẽ sẽ xảy ra bốn năm sau đó ở Bỉ, có lợi hoặc có hại cho Vua Leopold III. Kết quả của cuộc trưng cầu dân ý ở Bỉ hoàn toàn ngược lại : Miền Bắc, Flanders, chủ yếu ủng hộ Nhà vua, và miền Nam, Wallonie thì phần lớn phản đối. Điểm chung của cả hai tình huống này là nguyên nhân của các cuộc trưng cầu dân ý này đều bắt nguồn từ Thế chiến thứ hai. Marie-José, Công chúa Bỉ, hoàng hậu cuối cùng của nước Ý Ngoài sự chia rẽ Bắc – Nam ở đất nước này được tiết lộ bởi cuộc trưng cầu dân ý tại Ý ủng hộ nền Cộng hòa, lịch sử ghi nhận rằng hoàng hậu cuối cùng của Ý là người Bỉ : Marie-José, em gái của vua Leopold III và do đó là dì của vua Baudouin và vua Albert II. Bà kết hôn với Umberto, người đã trở thành Vua của nước Ý vào ngày 9 tháng 5 năm 1946 sau khi cha ông thoái vị. Marie-José được gọi là hoàng hậu tháng Năm vì cặp đôi này chỉ trị vì nước Ý trong vòng có một tháng, vì sau khi kết quả bỏ phiếu được công bố, cả hai đều phải lưu vong. Một điều khoản hiến pháp của nước Cộng hòa Ý đã cấm họ quay trở lại đất nước một cách rõ ràng. Mãi đến năm 2002, luật lưu vong này liên quan đến họ và con cháu của họ mới được bãi bỏ. Việc ban hành luật lưu vong chống lại Nhà vua và hoàng gia cho thấy sự phẫn nộ thực sự đối với họ vì chế độ quân chủ Ý đã thỏa hiệp với chủ nghĩa phát xít : cha của Umberto, Vittorio Emanuele III, đã chấp nhận việc thành lập chế độ độc tài phát xít. Dù miễn cưỡng, ông đã ký tuyên bố chiến tranh chống lại Pháp và các nước Đồng minh khác, và sau đó ông đã ký các luật chống lại người Do Thái. Tất nhiên, vào tháng 9 năm 1943, ông đã loại bỏ Mussolini, nhưng điều này là cơ hội, ít nhất là vào thời điểm mà Đồng minh đã chiếm đảo Sicilia và miền nam nước Ý và cuộc chiến tranh giữa đồng minh với Đức đã đến hồi kết thúc. Việc Vittorio Emanuele thoái vị để ủng hộ con trai mình vài tuần trước cuộc trưng cầu dân ý nhằm mục đích cứu vãn chế độ quân chủ, nhưng điều đó là không đủ. Sự lựa chọn một nước Cộng hòa Ý được đưa ra trong bối cảnh các hiệp ước chấm dứt chiến tranh : Ý đã bị đồng hóa với...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Người hồi hương từ Đông Dương về Pháp : 20 năm đấu tranh cho 70 năm bất công
    2025/08/15
    Từ năm 1954-1974, khoảng 44.000 người hồi hương từ Đông Dương được đón ở Pháp. Hơn 6.000 người bị “nhốt” trong bốn “trung tâm” trên nền doanh trại cũ, bị quản lý kiểu quân đội, đặc biệt là Sainte-Livrade-sur-Lot và Noyant d’Allier. Họ bị xâm phạm quyền tự do cá nhân, không được ra ngoài nếu không được phép. Họ sống bấp bênh, co cụm và bị đối xử dè chừng. 70 năm chịu bất công, 20 năm đấu tranh, cuối cùng những người hồi hương Đông Dương đã được bù đắp. Trong ba ngày từ 15 đến 17/08/2025, hiệp hội CEP-CAFI (Collectif des Eurasiens pour la préservation du Cafi de Sainte-Livrade) tổ chức lễ tưởng niệm tại trại Sainte-Livrade-sur-Lot và thông tin cho con cháu, người thân về dự luật Quốc gia công nhận những người hồi hương từ Đông Dương và bồi thường thiệt hại do họ và gia đình bị tiếp đón tệ bạc và phải sống trong điều kiện khắc khổ trên lãnh thổ Pháp, đặc biệt là ở ba trại Bias, Sainte-Livrade-sur-Lot và Noyant-d’Allier. Dự luật liên đảng, do dân biểu đảng Xã Hội Olivier Faure đề xuất, đã được thông qua ở Hạ Viện ngày 03/06/2025 và chờ được Thượng Viện thông qua, dự kiến tháng 10, sau đó sẽ được ban hành bằng sắc lệnh. Để cha mẹ và những người hồi hương Đông Dương không còn là “những người cuối cùng bị Nhà nước Pháp lãng quên”, thế hệ con cháu đã mất hơn 20 năm đấu tranh, trong đó có ông Daniel Freche, hiện là chủ tịch hội CEP-CAFI. Năm 10 tuổi, ông đến Pháp cùng mẹ và các anh chị em vì cha ông là người Việt nên không thể đi cùng. Ông sống gần 20 năm trong trại, chuyển từ Bias đến Noyant d’Allier và cuối cùng là Sainte-Livrade-sur-Lot. Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 02/07/2025, ông cho rằng “muộn còn hơn không” và giải thích tại sao “thắng lợi” này lại phải chờ lâu đến như vậy. RFI : Dân biểu Olivier Faure nói : Những người hồi hương Đông Dương “là những người cuối cùng bị lập pháp của Pháp lãng quên”. Phát biểu này có ý nghĩa như thế nào ? Tại sao đến bây giờ mới có một dự luật về người hồi hương Đông Dương ? Ông Daniel Freche : Dân biểu Olivier Faure không biết chuyện này. Tại sao gặp ông ? Tại vì ông cũng là con cái người hồi hương Đông Dương, cha mẹ cũng làm bên Pháp. Thứ hai là mấy người đó là qua đây (Pháp) có gia đình nên đoàn tụ với gia đình liền. Còn chúng tôi qua đây không có gia đình nào nên bắt buộc phải ở trong trại. Lúc mọi chuyện đã xong, tại sao lại đi gặp ông Faure ? Tại vì chúng tôi biết ông cũng là người hồi hương Đông Dương. Những người này hiểu chuyện hơn những người Pháp khác, cho nên gặp ông, cắt nghĩa câu chuyện cho ông biết. Gặp ông, cắt nghĩa cho ông tại sao 70 năm sau mới hỏi. Tại vì trước đây, cha mẹ chúng tôi không đòi hỏi gì hết. Nghèo thì nghèo, ở theo cách nghèo thôi, mà cần nhất là lo mấy đứa con cháu ra trưởng thành, có việc làm, có tương lai. Lúc đó họ lo lắng cho chúng tôi ăn học đàng hoàng. Rồi chúng tôi ra trường, đi làm, tới lúc đó mới suy nghĩ lại : Tại sao cũng là người Pháp, có quốc tịch Pháp, qua bên đây cũng đi theo Pháp, làm cho Pháp mà không được hưởng gì hết ? Còn những người “boat people” ngày trước, qua đây được người ta lo lắng đàng hoàng tử tế từ đầu tới cuối, tới khi họ ra khỏi trại thì thôi. Nhưng tại sao để cho những người hồi hương Đông Dương ở trong trại ? Chuyện đó, đối với chúng tôi, là không đúng. Đọc thêm"Lính thợ Đông Dương" : Những người lính thầm lặng tại Pháp trong Thế Chiến II Cho nên phải cắt nghĩa cho ông Faure hiểu. Chúng tôi muốn hỏi ông có thể làm gì để những người hồi hương Đông Dương được bù đắp sau mấy chục năm. Ông mới hiểu chuyện và nói rằng bắt buộc phải làm một luật khác vì luật về người Harki (1) đã được thông qua nên không được. Và ông đồng ý thảo dự luật về những người hồi hương Đông Dương. Lúc đó chúng tôi nói bây giờ nếu làm được chúng tôi cũng cảm ơn nhiều lắm. Tại vì nếu làm được thì không phải là cho chúng tô,i mà trước hết là cho cha mẹ chúng tôi, vì chúng tôi muốn ghi ...
    続きを読む 一部表示
    10 分
  • Trí tuệ nhân tạo, trợ thủ đắc lực của các đại lý du lịch
    2025/08/06
    Cũng như nhiều ngành khác, ngành du lịch đang chuyển đổi sâu sắc nhờ sự phát triển của trí tuệ nhân tạo AI. Thị trường AI toàn cầu ứng dụng vào du lịch, trị giá 2,95 tỷ đô la vào năm 2024, đến năm 2030 có thể đạt 13,38 tỷ đô la, theo ước tính của công ty MarketsandMarkets. Trợ lý ảo được hỗ trợ bởi công nghệ AI sẽ đảm nhiệm mọi quy trình liên quan đến du lịch, mang đến những trải nghiệm cực kỳ cá nhân hóa, đồng thời tối ưu hóa chi phí cho khách du lịch. Nhờ công nghệ học máy ( machine learning ) và phân tích dự đoán, trợ lý ảo nay có thể đề xuất các lựa chọn chuyến bay, chỗ ở và phương tiện di chuyển tốt nhất. Không chỉ dựa vào một mô hình duy nhất, trí tuệ nhân tạo đang định hình một mô hình gọi là du lịch kết hợp (hybrid), tức là mô hình mà trong đó đổi mới công nghệ và trải nghiệm của con người kết hợp với nhau để đáp ứng những kỳ vọng đa dạng của du khách. Các công ty du lịch hiện đang tận dụng khối lượng dữ liệu khổng lồ để xác định xu hướng, cải thiện hiệu quả hoạt động và cung cấp các dịch vụ được thiết kế riêng, chẳng hạn như định giá linh hoạt và các chương trình khuyến mãi được cá nhân hóa, nhờ vào công nghệ học máy. Trợ lý ảo, sử dụng ngôn ngữ tự nhiên (NLP), tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao tiếp giữa du khách và nhà cung cấp dịch vụ bằng cách phản hồi nhanh chóng các yêu cầu. Các OTA (đại lý du lịch trực tuyến) đang thử nghiệm công cụ tìm kiếm bằng giọng nói (hội thoại ) để làm cho tương tác trở nên tự nhiên, trôi chảy và trực quan hơn, gần như là một cuộc trò chuyện thực sự giữa con người. Triển lãm công nghệ VivaTech 2025 tại Paris lần đầu tiên đã dành hẳn một khu vực cho các công ty du lịch, giới thiệu những ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ trí tuệ nhân tạo, trong ngành này. Tootbus, một công ty con chuyên về các tour tham quan của công ty giao thông công cộng Paris RATP Dev, đã cho ra mắt Tootie, hướng dẫn viên du lịch đàm thoại được hỗ trợ bởi AI. Công ty quản lý du lịch Navan thì giới thiệu toàn bộ ứng dụng AI “tất cả trong một”, hỗ trợ khách du lịch trong suốt chuyến đi và hỗ trợ các giám đốc tài chính trong việc quản lý chi phí đi công tác của nhân viên. Cũng tại triển lãm Vivatech, công ty lữ hành TUI France đã trình làng một trợ lý ảo sử dụng trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ trực tiếp cho nhân viên bán hàng tại các đại lý của công ty. Công cụ AI này, hiểu được ngôn ngữ tự nhiên, sẽ giúp truy xuất thông tin để tối ưu hóa trải nghiệm của khách hàng. Cho đến nay, việc tìm kiếm và so sánh các sản phẩm tốn rất nhiều thời gian, đòi hỏi nhân viên đại lý phải tự thu thập thông tin từ nhiều nguồn. Với công cụ mới này, dựa trên các câu hỏi bằng ngôn ngữ tự nhiên, nhân viên đại lý sẽ có thể nhận được mô tả phòng đầy đủ, hành trình chi tiết cho các tour du lịch, thông tin về chỗ ở, thậm chí cả thủ tục du lịch (hộ chiếu, tiêm chủng). Nhờ đó, đại lý có thể tạo bảng so sánh nhiều sản phẩm chỉ trong vài giây. Với tác nhân tăng cường này, TUI France đang giới thiệu một khía cạnh mới trong việc xây dựng yêu cầu của khách hàng, đó là tìm kiếm trải nghiệm. Ra mắt chính thức vào tháng 12, tính năng này cho phép các tác nhân tìm kiếm chuyến đi dựa trên các tiêu chí trải nghiệm cụ thể, ngay cả khi khách hàng chưa chọn một điểm đến nào. Trả lời RFI Việt ngữ tại triển lãm Vivatech, ông Julien Lange, Giám đốc Digital Factory của công ty TUI France, giải thích: “Tìm kiếm trải nghiệm là nền tảng mà chúng tôi đã xây dựng tại công ty TUI France. Nhân viên đại lý du lịch hỏi khách hàng về trải nghiệm mà họ mong muốn. Thay vì chọn điểm đến, trước hết chúng tôi xem xét cách thức đáp ứng những mong muốn của khách hàng. Ví dụ, một khách hàng nói: "Trải nghiệm mà tôi mong muốn trong kỳ nghỉ của mình là băng qua sa mạc trên lưng lạc đà và sau đó lái xe 4x4." Chúng tôi nhập yêu cầu này bằng ngôn ngữ tự nhiên và hiển thị danh sách các sản ...
    続きを読む 一部表示
    10 分
  • Máy bay hydrogen, tương lai của ngành hàng không sạch
    2025/07/30
    Triển lãm hàng không và không gian Le Bourget, Paris (16 -22/06/205) một lần nữa là dịp để các công ty chế tạo máy bay giới thiệu những dự án máy bay “sạch”, tức là phát ra ít khí thải carbon gây hiệu ứng lồng kính, trong bối cảnh ngành hàng không toàn thế giới đang nỗ lực giảm thiểu tác hại đến khí hậu trên hành tinh của chúng ta. Dragonfly: " Sạch, êm, bền" Trong số các dự án đầy tham vọng đó, có máy bay chạy bằng hydrogen như chiếc Dragonfly của Blue Spirit Aero, một công ty khởi nghiệp của Pháp, được thành lập vào năm 2020, đặt cơ sở tại khu vực Paris và Toulouse. Dragonfly là loại máy bay bốn chỗ ngồi, ban đầu dành cho các trường dạy lái phi cơ, có 12 động cơ điện, mỗi động cơ chạy bằng pin nhiên liệu hydro. Thật ra trước khi đến Le Bourget, Dragonfly, được quảng cáo là "sạch, êm, bền", đã chính thức " ra mắt thế giới" ngày 10/06/2025, tại sân bay Le Mans. Olivier Savin, người sáng lập Blue Spirit Aero, nhấn mạnh "đây là chiếc máy bay chạy bằng hydrogen đầu tiên được thiết kế từ đầu", không giống như hàng chục dự án tương tự khác đang được tiến hành trên khắp thế giới. Ông nói: "Tất cả các đối thủ cạnh tranh của tôi, vì sự tiện lợi, đều lấy một chiếc máy bay hiện có và loại bỏ động cơ thông thường để chuyển sang động cơ điện và nhiên liệu hydrogen. Tôi tin rằng điều đó không hiệu quả". Chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của Dragonfly được lên kế hoạch "trong những tháng tới" và ông Savin hy vọng máy bay có thể sẽ được cấp chứng nhận trong những 2027-2028, và ngay sau đó sẽ được thương mại hóa. Nhà sáng lập Blue Spirit Aero cho biết: "Chúng tôi vẫn đang tìm kiếm các nhà đầu tư". Chiếc máy bay nhỏ này sẽ có thể bay 700 km với tốc độ 230km/giờ. Nó có khả năng bay cho dù có đến 8 động cơ không hoạt động. Blue Spirit Aero ban đầu nhắm đến thị trường các trường đào tạo phi công chuyên nghiệp. Theo ông Savin, "600.000 phi công sẽ phải được đào tạo trong 20 năm tới. Vì vậy, cần phải tăng số lượng máy bay có sẵn cho các trường đào tạo và những chiếc máy bay mới này phải thân thiện với môi trường". Về lâu dài, Blue Spirit Aero có kế hoạch giải quyết vấn đề vận tải khu vực bằng máy bay 6 chỗ ngồi có tầm bay 1.000 km, hoặc thậm chí là máy bay 14 chỗ ngồi. Cũng tại Triển lãm Le Bourget 2025, LoganAir, hãng hàng không khu vực lớn nhất của Scotland, đã thông báo thiết lập quan hệ đối tác đầy tham vọng với ZeroAvia, một công ty chuyên về động cơ đẩy hydrogen-điện, đưa công nghệ này vào đội máy bay của LoganAir, đánh dấu một bước tiến đáng kể hướng tới các chuyến bay thương mại không phát thải khí carbon. Dự án chủ lực bao gồm việc sử dụng kiểu máy bay Cessna Caravan làm nền tảng thử nghiệm cho hệ thống đẩy ZA600 của ZeroAvia, một động cơ 600 kilowatt được thiết kế cho máy bay chở từ 10 đến 20 hành khách. Tham vọng của Airbus: ZEROe Những doanh nghiệp lớn hơn nhiều, như tập đoàn chế tạo máy bay châu Âu Airbus, từ lâu cũng đã theo đuổi dự án máy bay hydrogen mang tên ZEROe. Trả lời RFI Việt ngữ từ Triển lãm Le Bourget, ông Karim Mokaddem, trưởng bộ phận Nghiên cứu và Phát triển về máy bay tương lai của Airbus, cho biết: “Động cơ điện được cung cấp năng lượng từ các electron. Các electron này tạo ra điện cho động cơ điện, tạo ra lực đẩy điện không phát thải, giống như trong một chiếc ô tô điện. Với hydrogen, điểm khác biệt là các electron này không được tạo ra từ pin như trong ô tô điện, mà được tạo ra bởi cái được gọi là pin nhiên liệu. Pin nhiên liệu này được cung cấp năng lượng bởi hydrogen, và từ hydrogen này, nó tạo ra điện, đi trực tiếp vào động cơ điện và tạo ra hệ thống đẩy điện. Nguyên tắc là như thế. Tại sao chúng ta không sử dụng pin? Bởi vì mật độ năng lượng trên một đơn vị khối lượng của pin hiện nay có không cho phép vận chuyển một số lượng lớn hành khách trên một quãng đường rất xa. Nếu muốn làm điều này cho ngành hàng không, chúng ta buộc phải sử dụng các hệ thống dựa trên hydrogen và pin ...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Băng đảng Mafia : Những ông hoàng bảo trợ cho dòng nhạc Jazz Mỹ ?
    2025/07/23
    Năm 1980, nhà xã hội học người Mỹ Ronald L. Morris, trong tác phẩm đề tựa « Wait until Dark: Jazz and Underworld » (tạm dịch là Khi màn đêm buông xuống : Jazz và Thế giới ngầm), từng khẳng định nhạc Jazz trong giai đoạn Lệnh cấm (1920-1933) sẽ không còn là Jazz nếu không có sự che chở của các băng đảng tội phạm. Theo ông, Jazz chịu rất nhiều ảnh hưởng từ mafia. Storyville, New Orleans : Nền tảng đầu tiên của mối liên hệ Jazz - Mafia Mối liên hệ này được hình thành tại Storyville, New Orleans vào cuối thế kỷ XIX. Đó là thời điểm làn sóng di cư người Ý diễn ra mạnh mẽ : Trong vòng 20 năm, 1880 – 1900, hơn 650 ngàn người Ý và Sicilia đổ vào nước Mỹ, quốc gia vừa thoát khỏi cảnh Nội Chiến. Họ băng Đại Tây Dương, mơ về một nước Mỹ thịnh vượng và cởi mở. Không chỉ có người Ý, trên các cầu cảng còn có người Ireland, và hàng triệu di dân đến từ Đông Âu, phần lớn là người Do Thái. Họ chạy trốn cảnh nghèo đói, thoát cảnh chiến tranh hay sự truy bức. Nhưng giấc mộng đó nhanh chóng tan vỡ khi phải đối mặt với thực tế nghiệt ngã : Nạn kỳ thị chủng tộc và chủ nghĩa bản địa. Bị hắt hủi, bị gạt ra bên lề xã hội, thất nghiệp, không được học hành, những di dân gốc Ý, Do Thái hay châu Phi sống chen chúc trong những khu phố nghèo tại các thành phố cảng lớn như Lower East Side ở New York hay như khu Vieux-Carré tại New Orleans. Các băng đảng tội phạm lần lượt xuất hiện : Mano nera, mafia, cosa nostra…. Không được tiếp cận các ngành kinh doanh hợp pháp, những nhóm tội phạm này mở rộng các hoạt động ngầm về đêm, thâu tóm các lĩnh vực giải trí và sân khấu, giang tay đón nhận những người nghệ sĩ lang thang, đặt nên nền tảng đầu tiên cho mối liên hệ giữa Jazz và Mafia trong nhiều thập niên sau đó của thế kỷ XX. Nhạc sĩ dương cầm Earl Hines, từng giải thích : « Các thành viên mafia đã nhanh chóng tìm thấy trong âm nhạc một lớp vỏ bọc tuyệt vời cho những mánh lới được thực hiện trong hậu trường, từ các trò cờ bạc trái phép, buôn thuốc phiện, cho đến cả mãi dâm. » Steven Jezo – Vannier, tác giả tập sách « Music Connection. Les parrains de la musique américaine au XXè siècle » (tạm dịch là Kết nối âm nhạc. Những người bảo trợ cho âm nhạc Mỹ thế kỷ XX), cho biết, vào năm 1902, người ta ước tính ở Storyville, đã có đến 85 sàn nhảy, gần 800 quán rượu và 230 nhà chứa, nơi hoạt động của khoảng 1.500 gái làng chơi. Ba phần tư các chủ sở hữu những cơ sở này đều là trùm các băng đảng với những cái tên Joe Segretta, Henry Matranga, Peter Ciacco hay Pete Lala, với câu lạc bộ nổi tiếng Big 25, sàn diễn đầu tiên của Joe Oliver – người sau này trở thành King Oliver. Đó cũng là nơi xuất thân của nhiều tên tuổi khác trong làng nhạc Jazz như Jelly Roll Morton, Kid Ory, Buddy Bolden, Louis Amstrong hay Cab Calloway… 1920 : Thời điểm quyết định cho cuộc hội ngộ Jazz - Mafia Theo nhà sử học Ronald L. Morris, cuộc hội ngộ mang tính quyết định giữa giới nhạc sĩ Jazz và Mafia là vào những năm 1920. Đây là thời điểm chính quyền tổng thống Woodrow Wilson ban hành Lệnh Cấm Rượu (1920-1933), bị cáo buộc là nguồn cội của mọi tệ nạn xã hội, khiến các quán rượu và tụ điểm hội hè bị đóng cửa, kết thúc thời kỳ hoàng kim một thế hệ Mafia tại New Orleans. Các nhóm tội phạm cùng những người chơi nhạc Jazz rời Storyville đi về phía bắc đến New York, Chicago, Kansas City… Họ sắp xếp lại hoạt động về đêm dọc theo các tuyến đường buôn rượu với sự tiếp tay của giới chức địa phương, và nhiều nghị sĩ Mỹ. Một thế hệ mới các ông trùm băng đảng gốc Ý, Do Thái hay Ireland ra đời, trong số này phải kể đến Al Capone, Alcatraz hay Dutch Schulz… Đam mê mãnh liệt nhạc Jazz cùng với sự táo bạo trong cách tổ chức và quản lý thế giới ngầm, thế hệ tội phạm mới này đã tái hiện các đêm nhạc với những câu lạc bộ tiện nghi, vui nhộn hơn, mở cửa cho tất cả các thành phần, và do vậy, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ mới của thời kỳ hậu chiến. Tại các cơ sở mới này, nhạc cũ lỗi thời nhường ...
    続きを読む 一部表示
    12 分