エピソード

  • Cuộc sống tăm tối của phụ nữ Afghanistan qua phóng sự ảnh của Sandra Calligaro
    2025/12/19
    Ngày 15/08/2021, quân đội Mỹ rút đi, phe Taliban giành lại chính quyền ở Afghanistan, hai mươi năm sau khi bị lật đổ. Sau những năm tháng tương đối tự do, người dân tại quốc gia Trung Á này lại sống dưới một chế độ vô cùng hà khắc, nhất là đối với nữ giới: Trẻ em gái bị loại khỏi giáo dục trung học, phụ nữ khi ra ngoài phải che kín từ đầu đến chân, thậm chí trên đường phố không được nói chuyện với nhau. Họ gần như bị xóa bỏ khỏi không gian công cộng. Cuộc sống tăm tối của phụ nữ Afghanistan ngày nay đã được nữ phóng viên nhiếp ảnh người Pháp Sandra Calligaro ghi lại trong một phóng sự ảnh được trưng bày gần đây tại Pháp. Năm 2007, Sandra Calligaro mới 25 tuổi và đang làm thêm tại một quán bar trong thời gian học nghệ thuật và nhiếp ảnh. Ước mơ của cô là trở thành một phóng viên kỳ cựu và đưa tin về các quốc gia đang có xung đột. Khi biết một người bạn phóng viên sẽ đi Afghanistan, Sandra đã xin đi theo. Một tháng rưỡi sau, cô phóng viên trẻ người Pháp đặt chân đến Kabul. Rồi vì say mê đất nước này, Sandra đã sống ở đó mười năm, trước khi trở lại Paris, nhưng vẫn thường xuyên đi lại giữa Pháp và Afghanistan. Người nữ phóng viên nhiếp ảnh này đã quyết định ghi lại cuộc sống thường nhật của người dân Afghanistan, nhất là của phụ nữ, dưới ách thống trị của Taliban. Sau khi đoạt Giải thưởng Françoise Demulder ( tên của phóng viên nhiếp ảnh chiến trường người Pháp ) vào năm 2024, Sandra Calligaro đã một lần nữa tham gia triển lãm tại Liên hoan ảnh báo chí quốc tế Visa pour l'image ở thành phố Perpignan, miền nam nước Pháp, đầu tháng 9/2025. Loạt ảnh được trưng bày có tựa đề “Afghanistan: Dưới Bóng Cờ Trắng”. Trả lời RFI Việt ngữ tại Liên hoan Visa pour l’image ngày 03/09/2025, Sandra Calligaro cho biết: “Tôi đã làm việc ở Afghanistan hơn 15 năm, với thời gian sống ở đó là khoảng mười năm. Giờ đây, tôi vẫn thường xuyên đi lại giữa hai nước Pháp và Afghanistan. Cho đến bây giờ, tôi luôn muốn ghi lại những hình ảnh về toàn bộ xã hội Afghanistan, cả nam lẫn nữ. Nhưng đúng là từ khi Taliban trở lại, tôi nhấn mạnh hơn một chút về những người phụ nữ đang sống một cuộc sống thường nhật như bị giam cầm. Đó là điều cần thiết và quan trọng. Chính sách đàn áp đã được thực hiện từng bước khá nhanh chóng. Khi Taliban trở lại nắm quyền vào năm 2021, không phải mọi thứ đều bị dừng lại cùng một lúc. Đầu tiên, các trường học bị đóng cửa đối với các bé gái đã qua tuổi dậy thì. Sau đó phụ nữ bị cấm vào các công viên, rồi các tiệm làm đẹp cũng bị đóng cửa. Hàng loạt biện pháp như vậy đã được áp dụng trong nhiều tháng sau đó. Trước sự đàn áp này, trước những sắc lệnh ngày càng hạn chế quyền tự do, tôi muốn cho thấy phụ nữ Afghanistan đang kháng cự như thế nào.” Tuy Afghanistan nay sống dưới chế độ hà khắc của Taliban, nhưng do cũng là phụ nữ nên Sandra Calligaro có phần nào dễ dàng tiếp cận những người mà nay hầu như chỉ sống trong không gian hạn hẹp của những căn nhà, căn hộ: “Hiện nay, làm việc ở Afghanistan hay đi đến nước này là rất khó khăn. Nhưng mặt khác, vì tôi là phụ nữ và hầu hết phụ nữ nay phải sống trong nhà, cho nên gặp gỡ trò chuyện với họ thực sự là khá dễ dàng. Hầu hết các bức ảnh chúng ta thấy trong triển lãm này đều được chụp trong nhà. Tôi muốn cho thấy sự phân đôi của xã hội Afghanistan thông qua các bức ảnh, với một không gian công cộng, không gian bên ngoài chủ yếu dành cho đàn ông và một không gian bên trong, nơi mà phụ nữ phần nào được tự do hơn một chút vì không bị quấy rầy. Những người phụ nữ, những cô gái trẻ mà tôi gặp đều có những cảm xúc khác nhau, vừa chán nản, vừa cam chịu và nhưng cũng vừa hy vọng. Đó chính là điều tôi muốn thể hiện trong loạt ảnh này: Trong nỗi tuyệt vọng tột cùng, chúng ta vẫn thấy rất nhiều hy vọng, hoặc ít nhất không chỉ là sự cam chịu, mà là rất nhiều sự chống chọi, rất nhiều sự thích nghi. Tôi muốn ghi lại ...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Hom Nguyen : Tỏa sáng trong hội họa từ khó khăn tuổi thơ
    2025/12/12
    Charles Aznavour có vị trí đặc biệt trong cuộc đời của họa sĩ Hom Nguyen và mẹ của ông, một phụ nữ Việt đến Pháp sau năm 1954. Họ đều là người nhập cư "với những khó khăn, nhưng có một khát khao, một chút điên rồ, giống như Aznavour", ca sĩ gốc Armenia. Năm 2024, chính Hom Nguyen vẽ bộ tem cây cổ thụ làng nhạc Pháp nhân 100 năm ngày sinh. Ngày 05/10/2025, toàn bộ bẩy tác phẩm, dụng cụ sáng tác của nghệ sĩ sinh năm 1972 được đưa vào bộ sưu tập cố định của Bảo tàng Bưu Chính (Musée de la Poste). Bưu điện cũng giữ một vị trí quan trọng đối với mẹ của Hom Nguyen. Ông kể lại trong cuốn tự truyện Ma vie d’Hom (Cuộc đời của Hom, NXB Robert Laffont, 2025) : “Thư từ là sợi dây liên lạc duy nhất giữa bà với gia đình ở Việt Nam. Mỗi tháng một lần, bà viết thư cho anh trai trên những tờ giấy rất mỏng để tiết kiệm bưu phí…” (tr. 95). “Mẹ” là người “truyền cảm hứng” cho thành công của một Hom Nguyen ngày nay. Bà đẹp, là người nhập cư không nói tiếng Pháp, làm mẹ đơn thân, bà bươn trải để nuôi con nhưng số phận lại buộc bà nằm liệt giường quá sớm, khiến cậu con trai trở nên “già trước tuổi”, phải nói dối và dối lòng mình để tự “vẽ” ra một điều kiện sống bình thường như những người khác : (…) Tôi từng đến những bữa tiệc nơi những người giàu có hơn tôi kể về cuộc sống tuyệt vời của họ. Tôi từng khốn khổ, nhưng tôi không muốn thừa nhận ; tôi ghét bị phán xét. Vì vậy, tôi đã phải dùng đến những lời nói dối, chỉ để tồn tại như họ”. (tr. 85) Hội họa đã giúp Hom tìm được tự do, tìm được khoảng trời riêng để trút tâm sự, để thoát khỏi thế giới thực. Từ tự học, mày mò phát minh những kỹ thuật mới, không ngại mạo hiểm, Hom Nguyen tạo được phong cách riêng “táo bạo, giàu cảm xúc”, “nổi tiếng với phong cách bốc đồng và những bức chân dung khổ lớn, nắm bắt được chiều sâu cảm xúc của con người thông qua màu sắc”, theo đánh giá của trang Artsper. Và để có được thành công này, theo Hom : “May mắn không tồn tại ; tôi là sự kết hợp của ý chí, tham vọng và sự chăm chỉ”. (tr. 180) RFI Tiếng Việt đã phỏng vấn họa sĩ Pháp gốc Việt nhân dịp anh ra cuốn tự truyện La Vie d’Hom (Cuộc đời của Hom). RFI : Trong cuốn tự truyện La vie d’Hom (Cuộc đời của Hom), anh không ngại kể lại những khó khăn, vất vả, kể cả những “tội lỗi” nhỏ thời niên thiếu. Nhưng chính những trải nghiệm và cuộc sống đó đã làm anh nhân văn hơn, dễ thấu hiểu những người yếu thế hơn. Trong cuốn tự truyện, anh cũng trích dẫn một câu nói của mẹ anh là “phải tự vạch con đường cho mình và đừng dừng lại”. Anh đã tìm con đường đó như thế nào ? Hom Nguyen : Trước tiên, tôi nghĩ là chúng ta không thể dừng lại. Tôi bắt đầu từ nguyên tắc đó, với lời khuyên của mẹ tôi : “Hãy tự vạch con đường cho mình và đừng dừng lại, con bị dồn vào chân tường nhưng con vẫn phải đi, phải luôn tiến lên phía trước”. Tôi nghĩ mẹ tôi nói đúng bởi vì nếu do dự thì chúng ta bị dừng lại. Và tôi đã không do dự. Mẹ tôi và tôi đã trải qua quá nhiều khó khăn nên đối với bà, việc tiến lên phía trước và không bao giờ dừng lại là điều thực sự quan trọng. Mẹ tôi đã truyền cho tôi khát khao và động lực đó, vượt qua khuyết tật của bà, bởi vì bà bị liệt nửa người. Bà đến Pháp lành lặn, sau đó bị tai nạn ô tô. Có lẽ qua tai nạn đó, qua những vết thương của bà, bà đã truyền cho tôi khát khao được tiến xa hơn nữa, đưa mẹ tôi và tôi đến những nơi khác, như kiểu để có thể thoát khỏi cuộc sống lúc đó. Khi có một người mẹ khuyết tật như mẹ tôi, đáng tiếc là bà không còn nữa, thì từ rất nhỏ, mới chỉ 6-7 tuổi, tôi đã biết là có nhiều việc phải làm. Thế là khi mới 10, 12 tuổi, tôi đã trưởng thành hơn những đứa trẻ khác bởi vì tôi chăm sóc mẹ. Tôi làm những việc như tháo túi chất thải để đổ vào nhà vệ sinh, tôi xoay người mẹ để vệ sinh hàng ngày cho bà, tôi giúp mẹ ăn uống. Tất nhiên là chúng tôi ...
    続きを読む 一部表示
    12 分
  • Philippe Conticini : Nghệ thuật tái tạo những kiểu bánh ngọt Pháp kinh điển
    2025/12/05
    Nhắc đến Philippe Conticini, giới chuyên ngành ẩm thực nghĩ tới ngay một trong những bậc thầy của nghề làm bánh ngọt : người từng được sách hướng dẫn Gault & Millau trao tặng danh hiệu Thợ làm bánh ngọt xuất sắc nhất nước Pháp vào năm 1991. Thế nhưng ít ai biết rằng, ông từng khởi nghiệp cùng với người anh trai Christian Conticini và cả hai ban đầu nổi tiếng nhờ nấu các món mặn. Sau một thời gian dài làm việc ở nước ngoài, chủ yếu tại Hoa Kỳ và Nhật Bản, Philippe Conticini trở về Pháp lập công ty kinh doanh kể từ năm 2012, khai thác thương hiệu mang tên mình (Maison Conticini) và nổi tiếng trên thế giới nhờ sở trường « tái thể hiện » những kiểu bánh ngọt Pháp kinh điển : bánh ngàn lớp mille-feuilles, bánh táo tatin úp ngược, bánh su nhồi kem (éclair hay cream puffs), bánh hạnh nhân macaron, bánh bông lan madeleine, bánh nhân hạt dẻ Paris-Brest ….. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, ông Philippe Conticini trước hết cho biết hình ảnh của nghệ thuật bánh ngọt Pháp trong mắt thực khách ở nước ngoài. Philippe Conticini : Vâng, bánh ngọt Pháp tự nhiên nổi tiếng là phức tạp cầu kỳ, phần lớn cũng vì cách làm bánh đòi hỏi nhiều kỹ năng và tay nghề, nhất là những kiểu bánh có từ nhiều thế kỷ qua. Điều này khá quan trọng, vì khi bạn muốn tái tạo một kiểu bánh ngọt « kinh điển », đã trở thành một phần của ẩm thực Pháp. Mỗi thợ làm bánh cũng nên biết đôi chút về lịch sử và truyền thống của kiểu bánh này, nắm vững các kỹ thuật cơ bản rồi sau đó mới có thể thích nghi, điều chỉnh lại theo cách làm của mình. Hầu hết các kiểu bánh được Philippe Conticici làm lại đều có khoảng 200 năm tuổi đời, chẳng hạn như kiểu bánh ngọt Saint-Honoré, từng được ông Chiboust tạo ra ở Paris vào năm 1840. Cửa hàng của ông nằm trên đường Saint-Honoré, cho nên ông lấy tên này để đặt cho bánh ngọt của mình. Saint-Honoré cũng là vị thánh phù hộ cho nghề làm bánh, nói chung. Về phần Philippe Conticici, ông cho biết vì sao ông đã chọn làm lại kiểu bánh này ? Philippe Conticini : Đây là một câu hỏi quan trọng vì nó phản ánh phần lớn sự nghiệp đời tôi. Trên thực tế, từ khi mới vào nghề, tội luôn thử nghiệm tìm tòi và có lẽ cũng vì thế, giới chuyên ngành thường xếp tôi vào thế hệ « tiên phong » thích khám phá những cách làm mới. Tôi thành danh vào năm 1995 (32 tuổi) trong làng ẩm thực quốc tế nhờ tạo ra các món ăn trong verrines, tức là hội tụ tất cả các thành phần món ăn trong một chiếc ly nhỏ (verrines), món ăn được trình bày theo nhiều lớp xếp chồng lên nhau, theo chiều dọc. Thực khách chỉ cần nhúng thìa vào ly, trộn đều mọi thành phần trước khi thưởng thức món ăn. Cách trình bày món ăn trong ly nhỏ verrine sau đó trở nên phổ biến ở khắp nơi, được nhiều đầu bếp sử dụng để giới thiệu các quầy thức ăn theo kiểu buffet. Tôi hãnh diện khi đã tạo ra món này, rồi sau đó tôi quyết định gạt món này sang một bên, có lẽ cũng vì tôi không muốn thấy tên tuổi của mình chỉ được gắn liền với chữ verrine. Mãi đến năm 45 tuổi, tôi cảm thấy đã đến lúc tôi chuyển hẳn sang nghề làm bánh ngọt. Vào thời ấy, tôi nghĩ rằng tại sao không thử làm lại những kiểu bánh ngọt kinh điển, nhất là khi một số công thức đang chìm vào quên lãng. Có thể nói là bước ngoặt quan trọng đối với tôi là vào năm 2008. Trong số các kiểu bánh tái tạo nổi tiếng của Philippe Conticini, có loại bánh nhân hạt dẻ Paris-Brest, vậy thì giai thoại đằng sau kiểu bánh này là gì và vì sao Paris-Brest lại có nhiều sức quyến rũ đến như vậy ? Nhà làm bánh người Pháp cho biết : Philippe Conticini : Tôi rất mê bánh Paris-Brest trước hết vì bánh này có praliné, một loại bột nhuyễn mềm, sánh mịn làm với hạt dẻ và hạnh nhân. Loại nhân praliné ngon tuyệt vời đối với một người hảo ngọt như tôi. Ngoài ra tôi cũng thích câu chuyện của Paris-Brest : Giai thoại kể rằng ban tổ chức vòng đua xe đạp từ Paris đến Brest đã yêu cầu một nhà làm bánh (ông Louis Durand) tạo ra một kiểu bánh mới để tặng cho ...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Phóng viên nhiếp ảnh Gaelle Girbes: Sát cánh với người dân Ukraina bất chấp hiểm nguy
    2025/12/03
    Vào đầu tháng 10/2025, phóng viên nhiếp ảnh Antoni Lallican đã thiệt mạng tại vùng Donbass, miền đông Ukraina, do bị một drone của Nga tấn công. Đây là nhà báo Pháp đầu tiên bị chết ở Ukraina trong một cuộc tấn công rõ ràng là có chủ đích từ phía quân Nga. Bất chấp nguy hiểm đến tính mạng, từ nhiều năm qua, nữ phóng viên ảnh độc lập người Pháp Gaelle Girbes vẫn sát cánh với người dân Ukraina. Tại triển lãm ảnh báo chí quốc tế Visa pour l’image 2025 ở thành phố Perpignan miền nam nước Pháp tháng 9/2025, Gaelle Girbes đã giới thiệu loạt ảnh chia sẻ cuộc sống thường nhật của những người không còn nơi nào để đi do nhà cửa đã bị bom đạn của quân Nga phá hủy. Qua tập ảnh "Ukraina, Sống Sót Giữa Đống Đổ Nát", Gaelle Girbes đưa độc giả đến những thành phố như Vouhledar ở vùng Donetsk, miền đông Ukraina, đã rơi vào tay quân Nga đầu tháng 10/2024, sau ba năm giao tranh ác liệt và bị phá hủy hoàn toàn. Trong những năm tháng trước đó, giữa cảnh hoang tàn, người dân Vouhledar vẫn cố gắn trồng rau, nuôi gà để ăn. Cũng ở vùng Donetsk, ngôi làng Borododychne đã không biết bao nhiêu lần bị quân Nga đánh chiếm rồi lại được quân Ukraina giành lại. Từ 556 dân trước khi bị Nga chiếm, nay chỉ còn 35 người dân sống tại ngôi làng giờ chỉ toàn là những đống gạch vụn. Nhân dịp tham gia triển lãm tại Perpignan, Gaelle Girbes đã dành cho RFI Việt ngữ bài phỏng vấn sau đây: Xin chào Gaelle Girbes, cô đã đến Ukraina từ năm 2017. Vì sao cô đã quyết định ở lại Ukraina, ngay cả sau khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược tháng 02/2022, bất chấp những nguy hiểm? Khi đến Ukraina lần đầu tiên, tôi đã rất xúc động trước tình hình tại đây. Ở tiền tuyến, cảnh tượng đầu tiên tôi chứng kiến ​​là năm quả đạn cối rơi trúng một ngôi nhà của những người hưu trí và những người lớn tuổi này phải một mình chiến đấu với ngọn lửa, đối mặt với thảm họa. Ở tuổi 72, dập tắt ngọn lửa đang phá hủy ngôi nhà dĩ nhiên không hề dễ dàng. Cảnh tượng đó đã thật sự ảnh hưởng đến tôi và tôi nhận ra rằng không có ai ở đó để tường thuật. Ở châu Âu, người ta cho rằng đây chỉ là một cuộc chiến đang “đóng băng”, nhưng thực tế không phải vậy. Cuộc chiến này đúng là có cường độ thấp so với ngày nay, nhưng đó là tiền đề cho một điều gì đó thậm chí còn tồi tệ và trầm trọng hơn, sẽ ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Và tôi cũng vô cùng cảm kích trước tinh thần của người dân Ukraina, mà tôi thấy là rất dũng cảm. Họ là những người bảo vệ những giá trị mà chúng ta rất trân trọng, như tự do. Công việc của tôi là ghi nhận ​​những tội ác và bất công của chiến tranh. Vì vậy, ngay từ khi quân đội Nga quyết định chính thức xâm lược Ukraina tháng 2/2022, tôi nghĩ đây là lúc mình phải ở lại và tiếp tục công việc của mình, chứ không được bỏ cuộc. Như vậy là trong suốt những năm qua, cô đã chứng kiến sự phá hủy các thị trấn và làng mạc ở Ukraina. Người dân đã đối phó như thế nào trong suốt thời gian đó? Trên thực tế, người dân Ukraina, trước khi có cuộc cách mạng Maidan năm 2014, đã từng làm cuộc Cách mạng Cam và thậm chí trước đó nữa, họ chưa bao giờ ngừng kháng cự và chiến đấu cho độc lập và tự do của mình. Khi đến đó, tôi đã ghi lại những diễn biến trên tiền tuyến ở vùng Donbass từ năm 2017 đến năm 2022. Vào năm 2022, khi cuộc xâm lược quy mô lớn của Nga bắt đầu, tôi đã tiếp tục ở bên cạnh những người dân mà tôi yêu thương, mà tôi đặc biệt trân trọng. Họ trải qua cuộc chiến đó với sức chịu đựng tuyệt vời và cũng bởi vì họ hoàn toàn nhận thức được rằng đó là một cuộc chiến sẽ không bao giờ kết thúc. Tôi hy vọng nó sẽ kết thúc, ngay bây giờ, nhưng sẽ cực kỳ khó. Họ đều tuyệt vọng, hay họ vẫn còn hy vọng rằng một ngày nào đó chiến tranh sẽ kết thúc? Về mặt tinh thần, người dân Ukraina có tuyệt vọng không? Không. Có mệt mỏi không ? Có, cực kỳ mệt mỏi, bởi vì với những cuộc ném bom dữ dội, không ...
    続きを読む 一部表示
    10 分
  • Phim tài liệu The Stringer : Hành trình đi tìm sự thật về tác giả bức ảnh Em Bé Napalm
    2025/11/28
    The Stringer : The man who took the photo là một cuộc điều tra. Phóng viên ảnh người Mỹ Gary Knight là nhân vật trung tâm. Tất cả bắt nguồn từ một tuyên bố của Carl Robinson, nguyên là nhân viên của hãng thông tấn Agence Press ở Sàigon năm 1972. Nick Ut hay Nguyễn Thành Nghệ là tác giả bức ảnh Em Bé Napalm ? « Vài lời về một trong những tấm ảnh nổi tiếng nhất trong lịch sử của các phóng viên chiến trường từ 50 năm qua. Đó là hình ảnh một bé gái bị phỏng nặng chạy thoát sau một trận dội bom … Tác giả bức ảnh được cho là Nick Ut, phóng viên ảnh của hãng thông tấn Mỹ AP… Nhưng nếu như người chụp tấm Em Bé Napalm lại không phải là ông ấy thì sao ? » Nhà báo người Pháp Nicolas Poincaré hôm 11/10/2025 đã giới thiệu về phim tài liệu The Stringer, hành trình đi tìm sự thật về tác giả bức ảnh Em Bé Napalm. Phim được được trình chiếu trong khuôn khổ chương trình tuần lễ thành phố Bayeux vùng Calvados-Normandie vinh danh các phóng viên chiến trường. Ở Pháp, phim được trình chiếu trên nền tảng phim trực tuyến Netflix từ ngày 28/11/2025. Tất cả bắt nguồn từ một phát biểu của Carl Robinson, cựu nhân viên của hãng thông tấn Agence Press ở Sài Gòn năm 1972 với Gary Knight. Nick Ut hay Nguyễn Thành Nghệ là tác giả bức ảnh Em Bé Napalm ? Trong cuộc điều tra về tác giả bức ảnh còn được biết đến dưới tên gọi The Terror of War Gary Kngiht đã tìm đến rất nhiều người, tìm kiếm những ai từng có mặt ở Trảng Bàng, ngày 08/06/1972. Hai người vắng mặt trong phim là Em bé Napalm bà Phan Thị Kim Phúc và phóng viên ảnh, Nick Ut. Trong đoạn phim tài liệu năm 1972, một phóng viên người Mỹ nhận định « Sau hai lượt bay, rõ ràng là các máy bay ném bom Skyraiders đã chọn nhầm mục tiêu … và trong đợt bay thứ ba, họ thả 4 quả bom napalm, trúng vào thường dân và các quân nhân ở Trảng Bàng ». Trước ống kính truyền hình và báo chí quốc tế, bất chợt, một cô bé 9 tuổi, trần truồng, bị bỏng nặng, cùng nhiều đứa trẻ từ ngôi làng này hoảng loạn chạy ra quốc lộ : Vừa chạy vừa la khóc, đau đớn, hoảng loạn. Bức ảnh Em Bé Napalm ngày 08/06/1972 trở thành biểu tượng của « địa ngục chiến tranh Việt Nam », đi vòng quanh thế giới, được bình chọn là « hình ảnh trong năm » và đoạt giải thưởng Pulitzer. Gần nửa thế kỷ, phóng viên ảnh Nick Ut được cho là người đã ghi được khoảnh khắc nói lên sự ghê rợn của chiến tranh. Trong những thước phim đã bạc màu thời gian, Nick Út từng thuật lại với báo chí quốc tế là ông đã trông thấy Kim Phúc chạy ra khỏi ngôi làng vừa bị dội bom như thế nào và đã đưa cô đến bệnh viện. Thế nhưng, The Stringer ra mắt công chúng lần đầu tiên trong khuôn khổ liên hoan Sundance hồi tháng 1/2025 đã nêu lên một câu hỏi bất ngờ. Đạo diễn Bảo Nguyễn đã sớm được nhà sản xuất và đoàn phim mời cùng đồng hành trong cuộc điều tra về tác giả bức ảnh nổi tiếng nói trên. Trả lời RFI Việt ngữ trước khi The Stringer được công chiếu tại Bayeux tháng 10/2025 đạo diễn Bảo Nguyễn giải thích vì sao anh đã nhận lời với phóng viên ảnh Gary Knight và đoàn phim : Với anh, theo đuổi và tìm kiếm sự thật phải là một ưu tiên. Bảo Nguyễn : Bộ phim bắt đầu bằng cuộc điều tra với phóng viên ảnh Gary Knight và đã được dựng lên cùng với Terri Lichstein và Fionna Turner. Điểm khởi đầu là một thư điện tử của Carl Robinson, cựu biên tập ảnh của hãng tin AP tại văn phòng Sài Gòn. Ông ấy đã thú nhận với Gary Knight và thế là nhóm làm phim bắt đầu mở cuộc điều tra. Họ đã liên hệ với tôi khá sớm vì tôi là một nhà làm phim tài liệu. Cá nhân tôi cũng đang cân nhắc liệu mình có muốn thực hiện bộ phim này hay không, bởi như chị nói, bức ảnh Em Bé Napalm là cả một biểu tượng .. Tuy nhiên tôi nghĩ, với tư cách một người tiếp nhận báo chí – tôi không phải nhà báo, tôi là một nhà làm phim – ngành báo chí thôi thúc chúng ta luôn nêu lên những nghi vấn và luôn đi tìm sự thật. Khi chưa biết cuộc điều tra sẽ dẫn đến đâu, tôi nghĩ điều quan trọng đối với chúng tôi, đặc biệt là...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Bí quyết thành công của loạt truyện tranh Astérix
    2025/11/21
    Trong làng truyện tranh tiếng Pháp, không phải chỉ có phóng viên Tintin mới đi khắp tứ phương, anh hùng Astérix cũng từng chu du bốn bể. Trong hơn 40 tập truyện được phát hành từ năm 1961, Astérix từng đi vòng quanh xứ Gô loa (Pháp), ghé thăm Bỉ, Tây Ban Nha, các nước Bắc Âu, Hy Lạp, Thụy Sĩ, hay đế chế La Mã. Với tựa đề « Astérix en Lusitanie », tập truyện tranh vừa được phát hành cuối năm 2025, đưa độc giả theo chân nhân vật Astérix ghé thăm xứ Bồ Đào Nha. Theo ghi nhận của tờ báo Ouest France, sau hai tuần lễ đầu tiên ra mắt bạn đọc, tập truyện « Astérix en Lusitanie » (Astérix tại Bồ Đào Nha) đã lập lỷ lục số bán với hơn một triệu bản, tức đã tăng 8% so với kỳ phát hành lần trước của tập truyện « L'Iris blanc » (Hoa diên vĩ trắng) cách đây hai năm. Đằng sau thành công của tập truyện thứ 41, có sự tham gia của họa sĩ Didier Conrad và nhà soạn kịch bản Fabrice Caro (ông viết toàn bộ lời thoại dưới bút danh FabCaro). Đây là lần thứ nhì, hai tác giả này hợp tác với nhau để tạo ra một quyển truyện tranh, được nhiều độc giả nhiệt tình đón nhận. Đọc thêmL'Iris blanc : Tập truyện tranh mới của Astérix ra mắt độc giả Trung thành với ý tưởng ban đầu của cặp bài trùng Uderzo và Goscinny, hai tác giả khai sinh nhân vật « anh hùng xứ Gô loa », nhóm sáng tác mới đã dí dỏm kể lại hành trình phiêu lưu tại Bồ Đào Nha của đôi bạn Astérix và Obélix cùng với chú chó dễ thương IdéFix (trong tiếng Anh được gọi là DogMatix). Tập truyện thứ 41 bắt đầu với nhân vật BoulQuiès gặp Astérix và Obélix để cầu cứu, xin họ mang « bầu thần dược » sang Lusitanie, một vùng đang bị đội quân La Mã chiếm đóng. Nhiệm vụ lần này của hai anh hùng Gô loa là giúp đỡ nhà sản xuất nước tương garum tên là Mavubès, phải chăng do thị lực kém nên không trông rộng nhìn xa, ông bị kết án một cách oan uổng vì tội âm mưu đầu độc hoàng đế César. Trong chuyến đi biển nhiều ngày đến Bồ Đào Nha, Astérix đã nghe kể lại giai thoại về sự phản bội của gia tộc Pirespès, dòng họ mang tiếng xấu nhất lịch sử, khiến cho người dân vùng Lusitanie phải chịu đựng một nỗi buồn u uẩn (saudade) day dứt khôn nguôi, được cho là nguồn gốc của fado, làn điệu dân ca nỉ non ai oán của Bồ Đào Nha. Thực ra, cốt truyện hoàn toàn hư cấu này là cái khung để cho hai tác giả sáng chế ra hàng loạt màn khôi hài, khai thác sự hiểu lầm, tình huống ngược đời, chọc cười bằng cách chơi chữ. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, nhóm sáng tác FabCaro và Didier Conrad đã cho biết đôi nét về ý tưởng hình thành cũng như quá trình sáng tạo tập truyện thứ 41. Câu hỏi đầu tiên rất đơn giản là tại sao nhóm sáng tác đã chọn Bồ Đào Nha : FabCaro : Từ trước tới nay, bộ truyện Astérix có truyền thống luân phiên hai thể loại : loại thứ nhất chuyên nói về nếp sống sinh hoạt của xứ Gô loa và loại thứ nhì thuật lại các chuyến du hành « xuất ngoại » của Astérix. Mặc dù không có gì bắt buộc nhóm sáng tác phải tuân theo, nhưng sau thành công của « Hoa diên vĩ trắng », chúng tôi nghĩ đã đến lúc đưa nhân vật chính đi thăm một chân trời mới. Về mặt cốt truyện, Bồ Đào Nha ở phía nam châu Âu không quá xa ngôi làng Gô loa ở vùng Bretagne. Chúng tôi đã trình bày ý tưởng này với nhà xuất bản Albert René và ban điều hành rất hứng thú vì ý tưởng này đã có từ lâu rồi, nhưng chưa có nhóm sáng tác nào bắt tay thực hiện. Mọi chuyện bắt đầu đơn giản như vậy. Chúng tôi lập ra danh sách của những nơi đã từng được vẽ thành truyện và lần này Bồ Đào Nha (Lusitanie) là nước thứ 15 được Astérix ghé thăm. Đọc thêmBộ truyện tranh Astérix ra mắt phần tiền truyện Idéfix « Astérix tại Bồ Đào Nha » là tập truyện thứ nhì của nhóm sáng tác Fabrice Caro và Didier Conrad. Đâu là những yếu tố « bất dịch » mà hai tác giả này buộc phải tuân thủ, để tránh đi ngược lại với ý tưởng ban đầu của hai nhà khai sinh là họa sĩ Albert Uderzo và nhà soạn kịch bản René Goscinny : Didier Conrad : Đúng vậy, trong bộ truyện ...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Những cây cầu quận Madison : 30 năm yêu chậm, sống chậm
    2025/11/14
    Ra đời 30 năm trước, Những cây cầu quận Madison (The Bridges of Madison County, 1995) để lại dấu ấn khó phai về chuyện tình ngắn ngủi giữa bà nội trợ Francesca và nhiếp ảnh gia Robert. Không gian phim quê mùa, tiết tấu chậm rãi nhưng bùng nổ cảm xúc nhờ màn hóa thân xuất sắc của minh tinh Meryl Streep và bàn tay đạo diễn Clint Eastwood. Tóm tắt truyện phim Bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên (có tựa đề khác là Tình yêu giữa trắng và đen) của nhà văn Mỹ Robert James Waller phát hành năm 1992. Câu chuyện mở ra chuyện tình lãng mạn của Francesca, bà nội trợ Mỹ gốc Ý sống tại miền quê Iowa những năm 1960. Bà đem lòng yêu Robert, một nhiếp ảnh gia tạp chí danh tiếng National Geographic. Robert tình cờ ghé thăm khu vực để sáng tác ấn phẩm ảnh có những cây cầu gỗ mái che tại địa hạt Madison. Chuyện tình chỉ kéo dài bốn ngày nhưng ám ảnh Francesca suốt cả cuộc đời cho đến khi bà qua đời. Tiểu thuyết được coi là một trong những tác phẩm thành công nhất thế kỷ 20 ngang ngửa với Chuyện tình (Eric Segal, năm 1970) với sức tiêu thụ 50 triệu ấn bản toàn cầu. Giới phê bình nhận xét tiểu thuyết này lãng mạn hóa một chuyện tình có thực, tuy nhiên, nhân vật trong tiểu thuyết hoàn toàn hư cấu. Những lựa chọn then chốt Hollywood không thể đứng yên trước sức hút nam châm của tiểu thuyết của Robert James nhằm chế biến thành tác phẩm màn bạc triệu đô. Đáng chú ý, Clint Eastwood đóng ba vai trò chủ đạo: nhà sản xuất, đạo diễn khiêm diễn viên chính cho bộ phim. Clint Eastwood gây bất ngờ nhất khi xoay mình sang thể loại phim không phải thế mạnh vốn có. Ông từng giành giải Oscar cho phim cao bồi Unforgiven (Không dung thứ) năm 1993. Điểm mấu chốt thứ hai, biên kịch Richard LaGraveese cũng là người chắp bút kịch bản cho hàng loạt phim tình cảm ăn khách như The mirror has two faces (Chiếc gương hai mặt), P.S I love you (Tái bút anh yêu em), Paris, Je t’aime (Paris tôi yêu em). Thứ ba, gương mặt “chọn mặt gửi vàng” chính là siêu sao Meryl Streep, từng đoạt 2 giải Oscar (tính tại thời điểm bộ phim ra mắt). Meryl không ngại bất cứ thử thách vai diễn khó khăn nào, cho dù vai diễn Francesca đòi hỏi sự giằng xé nội tâm dữ dội. Ngân sách phim rất khiêm tốn (chỉ 22 triệu đô), ba quyết định then chốt (đạo diễn, biên kịch, diễn viên chính) kèm theo tiếng vang của tiểu thuyết đã giúp nhà sản xuất gặt hái thành công thương mại 182 triệu đôla. Meryl Streep được đề cử Oscar cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Bí mật chôn vùi hơn ba thập kỷ Tiết tấu phim rất chậm rãi như hành trình khám phá cuốn hồi ký Francesca ngược thời gian. Mở màn ở thực tại những năm 1990, khi hai người con, Michael và Carolyn đoàn tụ ngôi nhà vùng nông thôn Iowa sau khi bà mẹ Francesca qua đời. Họ thực sự sốc khi biết rằng bà mẹ yêu cầu hỏa táng và rắc tro từ trên cây cầu gỗ Roseman, chứ không phải chôn cạnh người cha Richard quá cố của họ. Bí mật sáng tỏ khi họ khám phá chiếc hộp bí ẩn gồm sổ tay, ảnh chụp Francesca tại cây cầu gỗ và những lá thư của người đàn ông xa lạ có tên Robert Kincaid. Sau đó, phim lội ngược dòng thời gian về năm 1965 với chuyện tình 4 ngày của Francesca với người đàn ông Robert khi cả chồng con đi vắng xa nhà. Cuốn hồi ký mô tả cuộc tình sâu đậm giữa Francesca và Robert, dường như họ muốn bỏ trốn cùng nhau. Một mặt, bà băn khoăn về mối quan hệ lâu dài giữa bà và Robert. Mặt khác, Francesca cảm thấy trách nhiệm với cuộc hôn nhân thiếu cảm xúc, hối tiếc nếu bỏ lại những đứa con vị thành niên và người chồng chung thủy. Sau khi Richard qua đời, Francesca tìm cách liên lạc với Robert nhưng chỉ biết ông không còn làm ở tạp chí National Geographic. Ba năm sau khi chồng bà mất, Robert cũng qua đời và để lại hết kỷ vật cho bà, tro của ông rải xuống sông trên cây cầu Roseman. Câu chuyện cảm động, đầy tính nhân văn, lay động trái tim Michael và Carolyn. Họ thực hiện đúng lời nguyện ước của bà mẹ trên cây cầu nảy nở tình yêu giữa Francesca và Robert. Điểm nhấn cảm xúc và cao trào Đạo diễn Clint Eastwood ...
    続きを読む 一部表示
    9 分