エピソード

  • Phổ biến văn hóa và “xuất khẩu” liên hoan: Thành công của Festival d’Avignon
    2025/08/29
    Từ 3.000 khán giả trong những năm đầu thành lập, Festival d’Avignon 2025 thu hút hơn 500.000 khán giả chỉ trong ba tuần tháng 07. Tổng cộng 43 buổi diễn, hai triển lãm và hơn 200 sự kiện lớn nhỏ trong chương trình chính thức “IN” và 1.785 vở diễn trong chương trình biểu diễn phi chính thức “OFF” được tổ chức song song. Cả thành phố Avignon trở thành sân khấu ngoài trời, những con phố nhộn nhịp từ sáng đến khuya trong tiếng nhạc, tiếng rao quảng cáo buổi diễn và không khí hội hè. Tại sao Liên hoan Avignon lại thành công như vậy? Hiện tại, chưa có thống kê chính thức về mùa liên hoan 2025 nhưng các nhà tổ chức khẳng định thành công hơn năm 2024. Số lượng khách đến Avignon năm 2025 đạt mức kỷ lục từ năm 2016. Những con số này cũng khẳng định danh tiếng của liên hoan trên quy mô thế giới, mô hình tổ chức. Mô hình Festival d’Avignon đã được “xuất khẩu” sang nhiều nước, như Đức, Scotland, Mêhicô và kể cả Việt Nam với Festival Huế đầu những năm 2000. Biến Liên hoan Avignon thành hiện tượng văn hóa quần chúng Trả lời RFI Tiếng Việt tại Avignon, giáo sư sử học Antoine de Baecque, trường Sư phạm Ulm, phụ trách triển lãm Les Clés du Festival (Những chìa khóa của Liên hoan), do Hội Jean Vilar đồng tổ chức với Thư viện Quốc gia Pháp - BNF, nhấn mạnh yếu tố đầu tiên giải thích cho thành công này là biến Festival d’Avignon thành “hiện tượng nghệ thuật quần chúng”, thành một “thói quen văn hóa” : “Liên hoan Avignon đã trở thành một sự kiện văn hóa lớn ở Pháp vào mùa hè và vẫn luôn thu hút các tệp khán giả rất đa dạng. Có khoảng 40 vở diễn trong chương trình chính thức “IN” và gần 1.800 vở diễn trong chương trình phi chính thức “OFF” vào mỗi kỳ Festival được tổ chức tháng 07 hàng năm. Liên hoan đã thu hút đông đảo công chúng. Đây là điều mà Jean Vilar mong muốn và được tất cả các giám đốc Liên hoan sau này duy trì”. Thành công rực rỡ của năm 2025 còn được giải thích qua việc tổ chức cùng lúc hai Festival chính thức “IN” và không chính thức “OFF”. “Đông công chúng sẽ bảo đảm lợi ích về văn hóa và kinh tế”, theo giám đốc Liên hoan Avignon, nhà soạn kịch người Bồ Đào Nha Tiago Rodrigues. Trước tiên là cho các nhà làm du lịch, nhà hàng, khách sạn, lưu trú. Tiếp theo là tạo nguồn thu chủ lực cho thành phố và ban tổ chức để chuẩn bị cho kỳ liên hoan sau, cũng như đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Giám đốc Tiago Rodrigues khẳng định Festival d’Avignon đã khiến mỗi euro tài trợ công được lời gấp 6 lần, “khi một du khách đến liên hoan chi 10 euro, thì hai euro dành cho festival, 8 euro còn lại là cho địa phương”. Tuy nhiên, để sự kiện văn hóa trở thành nguồn thu chủ lực là cả một quá trình dài biến Liên hoan thành hoạt động văn hóa quần chúng, phổ quát, để kịch, sân khấu chạm tới khán giả. Nhà phê bình điện ảnh, sử gia Antoine de Baecque giải thích : “Mong muốn của Jean Vilar, người từng chỉ đạo Nhà hát Bình dân Quốc gia, là phổ biến đến công chúng, cho nên ông chủ trương tiếp cận những người thường không đến nhà hát, những người phần nào sợ sân khấu hoặc nói rằng “Ôi, chuyện đó không dành cho tôi, nó quá phức tạp”. Đi tìm khán giả, có nghĩa là phải có chính sách trong các công đoàn vào thời điểm đó. Hiện tại, việc này được truyền tải rất nhiều thông qua trường học, học sinh, sinh viên hoặc người đã nghỉ hưu để thu hút họ, không phải chỉ tới một lần mà khi đã tới rồi, đôi khi họ sẽ quay lại, để theo thời gian, họ trở thành người hâm mộ sân khấu. Nhưng đúng, một trong những đặc điểm của Liên hoan Avignon ngay từ những ngày đầu tới nay, đó là mang đến sân khấu đương đại nhất, có thể nói là sân khấu tiên phong, tới đông đảo khán giả. Đây chính là điều làm nên thành công của Liên hoan Avignon”. Để sân khấu “dễ hiểu” với công chúng Không chỉ dừng ở sân khấu với những sáng tác của mình, Jean Vilar, người được coi là cha đẻ của Festival d’Avignon, đã nảy ra ý tưởng mời những tác giả khác và đưa nhảy, múa vào Liên hoan ...
    続きを読む 一部表示
    10 分
  • Từ Việt Nam qua Pháp đến Mỹ: Thăng trầm của một gia đình theo bốn cuộc chiến trong vở kịch Hongaï
    2025/08/22
    Trụ sở của SDECE (Service de Documentation Extérieure et de Contre-Espionnage), cơ quan tình báo đối ngoại quân đội Pháp) tại Paris, Rose McConaughey vừa từ miền Bắc Việt Nam trở về và báo cáo về cuộc “chạm trán” với Florence, một điệp viên Pháp nằm vùng ở nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ gần 30 năm. Tại sao Florence không còn cung cấp tin tức từ vài năm qua ? Florence đã phản bội ? Vở kịch Hongaï (Hòn Gai) của đoàn Collectif Rue 46 được bắt đầu trong bối cảnh như vậy. Những lời kể của Rose được chuyển cảnh, thành thực tế, từ Paris sang Hà Nội, từ văn phòng của SDECE sang nhà của Florence. Cả vở kịch có 15 giai đoạn, 50 nhân vật, ba lục địa Á, Âu, Mỹ. Khán giả được đưa từ Việt Nam của những năm 1970 ngược lại Pháp trong giai đoạn giữa hai Thế Chiến, rồi lại sang New York trong những năm 1950. Tất cả liên quan đến một gia đình Pháp-Việt sống ở Hòn Gai đầu thế kỷ 20. Cuộc sống an nhàn, bình yên của họ trở nên sóng gió, bị thay đổi hoàn toàn vì những biến động của thế giới, vì những sự kiện lịch sử. Cảm nhận chung của khán giả khi Hongaï hạ màn là hồi hộp, bất ngờ đến phút chót. Một vở kịch nhưng đầy kịch tính, diễn biến nhanh như một bộ phim trinh thám, gián điệp. Một bức tranh lịch sử được dàn dựng rất sáng tạo và thành công, sự đan xen khéo léo giữa các nhân vật ở nhiều độ tuổi khác nhau trong cùng một cảnh, không làm người xem bị mất phương hướng cùng với những lời thoại đẹp và diễn xuất của diễn viên”. Hongaï là một vở diễn rất khác so với những gì chúng ta thường thấy ở thể loại này. Cốt truyện tinh tế và thú vị, dàn dựng mạch lạc và hiệu quả, các diễn viên nhập vai một cách xuất sắc, tràn đầy năng lượng! (Ý kiến của khán giả trên trang BilletReduc) Đằng sau thành công này là đoàn kịch Collectif Rue 46 và tác giả, đạo diễn kiêm diễn viên La Belle Époque. Tại Liên hoan Avignon 2025, RFI Tiếng Việt đã gặp và phỏng vấn La Belle Époque và nghệ sĩ Franck Milin, nhập vai điệp viên Florence trong Hongaï. RFI : Xin chào anh La Belle Époque và Franck Milin. Hongaï là một câu chuyện được nghiên cứu theo chiều hướng lịch sử. Ý tưởng được hình thành như thế nào ? La Belle Époque : Về cơ bản, tôi muốn một câu chuyện kể về một người đi tìm một người đã mất tích từ lâu, từ cả hàng chục năm trước. Về một nơi xa xôi nào đó, tôi nghĩ có thể chọn giữa Nam Mỹ hoặc châu Á. Tôi bị cuốn theo hướng châu Á ngay bởi vì bà tôi sinh ra ở Việt Nam, nên điều đó rất có ý nghĩa với tôi. Và thế là hình thành câu chuyện kể về việc đi tìm một người mất tích từ lâu ở Việt Nam. Ngay sau đó, tôi nảy ra ý tưởng về gián điệp vì tôi đam mê những câu chuyện gián điệp. Tôi đã nghe rất nhiều podcast của Radio France có tên là Espion, une histoire vraie (Điệp viên, một câu chuyện có thật). Đó là những câu chuyện có thật, khá hấp dẫn bởi vì hành trình của những điệp viên đó khá là lãng mạn. Qua những câu chuyện đó, tôi cũng hiểu được rằng đôi khi động cơ của họ mang tính ý thức hệ ít hơn là cảm xúc, và chúng gắn liền với cuộc đời, tình yêu và gia đình. Thế là tôi tự nhủ đó sẽ là một câu chuyện gián điệp, sẽ có cựu điệp viên người Pháp, Gustave Duong, mật danh Florence, nằm vùng từ thời chiến tranh Đông Dương. Tiếp theo là có thêm điệp viên CIA, Rose McConaughey, được cử thay mặt cho Cơ quan tình báo đối ngoại của Pháp - SDECE để hồi hương hoặc giết chết Florence. Phải kiểm tra xem điệp viên nằm vùng đó có phải là kẻ phản bội hay không. Và đó là điểm khởi đầu của câu chuyện, và cuộc gặp gỡ giữa hai điệp viên này. Chúng ta bước vào cuộc sống, quá khứ của họ và khám phá ra rất nhiều điều. RFI : Có 30 nhân vật, trải qua 15 thời kỳ khác nhau và trên ba lục địa (Á, Âu, Mỹ). Làm thế nào để có thể thay đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, bởi vì hiểu được một chút về lịch sử gia đình hoặc một giai đoạn đã là phức tạp trong khi ở đây, vở kịch có đến 15 giai đoạn khác nhau ? La Belle Époque : ...
    続きを読む 一部表示
    11 分
  • Album Medusa - Quái vật 30 năm tuổi đời
    2025/08/08
    Album Medusa của diva Annie Lennox chính thức bước sang tuổi 30 vào năm 2025. Tuyển tập ca khúc trong Medusa đã nghĩa lại cover tác phẩm kinh điển qua nhãn quan của diva hàng đầu. Tầm vóc diva nước Anh Anniex Lennox là trụ cột, ca sỹ/nhạc sỹ chính của nhóm nhạc Eurythmics, Anh Quốc cùng với tay guitar kiêm nhạc sỹ Dave Steward. Bộ đôi gặt hái thành công vang dội trong thập niên 1980 nhờ các bản hit như Sweet Dream, Here comes the rain theo trào lưu synth-pop, new wave. Sinh năm 1954 tại Aberdeen, Scotland (Anh), bà tạo ấn tượng mạnh nhờ phong cách nổi loạn: tóc ngắn, nhuộm màu cam, mắt tô chì đen lạnh lùng. Sau thành công của nhóm Eurythmics, Annie Lennox tách ra hát solo bằng album kinh điển Diva (1992). Abum này được giới phê bình và khán giả đón nhận nồng nhiệt với nhiều bản hit như Why (Tại sao), Walking on broken glass (Bước trên thủy tinh vỡ). Nhờ chất giọng contralto, Annie có dấu riêng bản sắc giọng và ca khúc đậm chất thơ với nhà sản xuất Stephen Lipson. Các ca khúc gắn tới tên tuổi bà được chăm chút kỹ lưỡng từ giai điệu, ca từ, phối khí. Đáng chú ý Annie Lennox là đồng tác giả sáng tác nhiều ca khúc trong album Diva. Album Medusa gây tranh cãi Medusa, album solo thứ hai trong sự nghiệp của nữ diva Scotland, sản xuất năm 1995 lại tạo nên tranh luận trái chiều. Toàn bộ album hát lại (cover) các tác phẩm kinh điển của Neil Young, Bob Marley, Al Green. Hình bìa album, Annie Lennox hóa thân thành quái vật Medusa có sức mạnh “hóa đá” người nghe. Tờ AllMusic cho rằng Annie Lennox chọn đôi giày quá rộng và quá sức của diva, nên chăng tập trung vào một thể loại có thế mạnh. Tờ Rollingstone ưu ái hơn với album Medusa, cho rằng nỗ lực của Annie Lennox ngang ngửa album solo đầu tay Diva. Ca khúc mở màn và đinh nhất của album là No More I love you (Em không còn yêu anh) hát lại của nhóm Lover Speaks. Bản gốc của nhóm nhạc Anh chỉ lọt vào hạng 58 bảng xếp hạng Anh Quốc, nên rất ít tiếng tăm. Nhờ bàn tay phù thủy nhà sản xuất Stephen, bản cover có cấu trúc rõ nét và mạch lạc. Diva thể hiện lối hát liêu trai cùng chất giọng đặc trưng. Bà đẩy được cao trào bản nhạc, luyến láy và tạo được bản sắc cá nhân. Lớp phối khí dày và chất giọng diva bay bổng trong bản cover mà khán giả quên hẳn bản gốc. Ca khúc leo lên hạng nhì bảng xếp hạng Anh và giành giải Grammy 1995 – Trình diễn pop xuất sắc nhất. Ví dụ này cho thấy sự độc đáo trong cách làm mới ca khúc nhờ khai thác giai điệu cốt lõi và thế mạnh của ca sỹ thể hiện. Thành công thương mại Album gặt hái thành công thương mại đáng kể nhờ bản hit No more I love you. Album đứng thứ 11 trong bảng xếp hạng Billboard 200 album bán chạy nhất tại Mỹ cùng năm. Con dao hai lưỡi của No more I love you khiến cho các đĩa đơn tiếp theo trong album bị đặt lên bàn cân. Đĩa đơn thứ hai, A Whiter Shade of Pale, hát lại bản gốc nhóm rock Anh, Procol Harum năm 1967. Bản nhạc gốc có giai điệu khá hấp dẫn với ca từ khó hiểu với nhiều tầng lớp ẩn dụ văn học. Đại ý tình cảm nam nữ phát sinh sau khi đã say men trong bữa tiệc đêm hè. Bản phối tao nhã nhờ tiếng keyboard nền nã làm nền chắc chắn cho giọng ca Annie. Một tác phẩm khác được bà hát lại, Take me to the river (Đưa em tới con sông) của Al Green. Bản nhạc gốc được thể hiện theo thể loại R&B và soul còn diva kịch tính hơn với chất pop/rock. Trong Don’t let it bring you down (Đừng để điều đó khiến bạn thất vọng), nhà sản xuất đem tới hơi thở mới cho bản gốc của nam rocker Neil Young. Phần intro (mở bài) có giai điệu rất bắt tai và phần kết thúc có độ ngân nga kéo dài. Chất giọng nữ cao của Annie làm chủ được cuộc chơi, phơi bày được giai điệu cuốn hút nhất. Kỹ thuật và bản năng âm nhạc Đề cập tới phổ âm nhạc rất rộng trong album, Annie chia sẻ : “Album tuyển chọn những bài hát tôi bị thu hút bởi nhiều lý do. Tôi không chọn dựa trên chủ đề hay nội dung cụ thể mà chỉ là bản năng âm nhạc hơn là sự tính toán. Tôi rất biết ơn cơ hội này vì sản phẩm này thực sự là lao động nghệ thuật đích thực.” Giải thích của Annie cho thấy bản năng nghệ ...
    続きを読む 一部表示
    10 分
  • Quảng bá du lịch qua lăng kính phim ảnh
    2025/07/25
    Phim ảnh không chỉ là phương tiện giải trí, mà còn là một công cụ quảng bá khá hữu hiệu giúp phát triển ngành du lịch. Theo khảo sát gần đây của mạng đặt phòng Expedia, điện ảnh và phim truyền hình đã trở thành nguồn thúc đẩy du lịch hàng đầu, mạnh hơn cả mạng xã hội. Phim ảnh mở ra nhiều cơ hội quảng bá hình ảnh của các vùng miền, con người và văn hóa, nhờ tạo thêm thiện cảm mà thuyết phục du khách đến thăm một đất nước. Phim chiếu rạp hay phim truyền hình nhiều tập, nhờ vào lối kể chuyện hấp dẫn, dễ lôi cuốn khán giả vào những hành trình thú vị, thường khác xa với cuộc sống thường ngày. Những cảnh phim đẹp thường gợi lên trong lòng khán giả mong muốn ghé chân đến thăm những nơi họ từng được xem trong phim. Trên thế giới, có rất nhiều nước đang khai thác tiềm năng của phim ảnh để thu hút khách du lịch. Thực tế cho thấy trong những năm 2001-2004 , số du khách quốc tế đến thăm New Zealand đã tăng 50%, nơi từng quay loạt phim thần thoại « The Lord of the Rings » (Chúa tể các chiếc nhẫn). Còn tại Vương quốc Anh, trong giai đoạn 2011-2014, loạt phim phù thủy « Harry Potter » đã nhân lên hơn gấp đôi số du khách nước ngoài đến thăm các phim trường tại Anh. Các phong cảnh tuyệt đẹp ở Croatia, Iceland hay Bắc Ai Len cũng thu hút đông đảo khách du lịch sau khi các mùa phim « Game of Thrones » (Trò chơi vương quyền) chinh phục khán giả toàn cầu. Trong những năm gần đây, Hàn Quốc là quốc gia châu Á gặt hái nhiều thành quả trong việc thúc đẩy du lịch nhờ các loạt phim truyền hình như « Intaewon Class », Cung nữ « Dae Jang-Geum », « Moon Lovers : Scarlet Heart » (Người tình ánh trăng) và nhất là ba mùa phim « Squid Game » (Trò chơi con mực). Các bộ phim này chẳng những lôi cuốn được nhiều khách du lịch mà còn giúp phổ biến ẩm thực của xứ bình minh yên tĩnh. Còn tại Việt Nam, nhiều phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng không kém phần thơ mộng tại Quảng Bình, Ninh Bình, Phú Yên đã thuyết phục nhiều đoàn phim quốc tế chọn làm bối cảnh bấm máy quay phim. Sau những bộ phim nổi tiếng như « Người tình » và « Đông Dương » của thập niên 1990, khán giả nước ngoài khám phá phong cảnh Việt Nam dưới một góc nhìn mới qua phim « Kong : Đảo đầu lâu » và gần đây hơn nữa là bộ phim « Hành trình tình yêu của một du khách » (A tourist's guide of Love) do Netflix quay tại Hà Nội, Sài Gòn, Hà Giang và Hội An. Phim này lọt vào danh sách các bộ phim được xem nhiều nhất tại gần 90 quốc gia trên Netflix, nhờ những cảnh quay chỉn chu mà góp phần gầy dựng thêm hình ảnh và uy tín của Việt Nam trong mắt khách du lịch nước ngoài. Tuy nhiên, không phải nơi nào cũng thành công trong việc quảng bá du lịch nhờ vào phim ảnh. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, cô Nawel Chaouni, giảng viên ngành truyền thông, thông tin tại Đại học Clermont Auvergne, cho biết các quốc gia hay vùng miền cần phải có tầm nhìn xa để tránh rơi vào thế thụ động, không đáp ứng kịp thời nhu cầu của du khách : Đúng vậy, phim ảnh đã góp phần thay đổi nhận thức và giúp quảng bá những điểm đến ít nổi tiếng trước đây. Ban đầu, các địa điểm quay phim chủ yếu được coi là bối cảnh đơn thuần, các đoàn phim thường chọn những nơi vắng người để tiện bề quay phim. Các quốc gia đã mất một thời gian khá dài trước khi nhận thức được về tiềm năng quảng bá du lịch của phim ảnh. Hiện tượng này trở nên rõ nét sau các loạt phim « Trò chơi vương quyền » hoặc « Chúa tể các chiếc nhẫn ». Các chính quyền địa phương lúc bấy giờ mới nhận thấy được cơn sốt mà phim ảnh có thể tạo ra nơi giới hâm mộ, từ đó mà các điểm đến thu hút được thêm nhiều du khách. Quả thật là các chuyên viên làm việc trong ngành du lịch, cần phải phản ứng nhanh. Họ cần phải biết thích nghi với tình huống mới, điều chỉnh cơ cấu cũng như cách tổ chức để đáp ứng nhu cầu trước cơn sốt của người hâm mộ. Qua các nền tảng trực tuyến, một bộ phim có thể thành công rất nhanh chóng nhờ vào mức độ lan truyền trên ...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • [Superstrat[ : Đi tìm nguồn cội múa châu Phi qua nhãn quan của một biên đạo người Pháp gốc Việt
    2025/07/18
    [Superstrat[ là một trong bốn tiết mục nhảy, múa được giới thiệu đến công chúng và các nhà chuyên nghiệp sáng 15/07/2025 trong khuôn khổ chương trình La belle scène saint-denis (09-18/07) tại Liên hoan Avignon. Tác giả kiêm biên đạo múa Anne Nguyen tiếp tục hành trình tìm nguồn cội của các phong cách nhảy đường phố, trong đó có hip-hop, mà những mối liên hệ giữa văn hóa và bản sắc trong xã hội đương đại ngày nay. Trong [Superstrat[, giai điệu, các giai đoạn, thời kỳ và động tác, cử chỉ “đối thoại” với nhau để đưa khán giả khám phá di sản của cộng đồng người Mỹ gốc Phi. Chủ ý của vở múa được truyền tải đến khán giả qua màn biểu diễn đầy sức thuyết phục và trình độ chuyên môn của nghệ sĩ người Côte d’Ivoire (Bờ Biển Ngà) Mark-Wilfried Kouadio, nghệ danh “Willy Kazzama”. RFI Tiếng Việt đã phỏng vấn Anne Nguyen và Mark-Wilfried Kouadio sau buổi biểu diễn. RFI : Trước tiên xin hỏi Anne Nguyen, tên tác phẩm [Superstrat[ có ý nghĩa như thế nào ? Tác phẩm lấy nguồn cảm hứng từ đâu ? Anne Nguyen : [Superstrat[ là một từ bổ nghĩa cho “substrat” (nền tảng), có nghĩa là những ngôn ngữ nước ngoài đã ảnh hưởng đến ngôn ngữ chính. Ý tưởng của vở diễn là thể hiện toàn bộ ảnh hưởng của các làn sóng di cư đến văn hóa của một đất nước, tiếp theo là những thay đổi về lãnh thổ ảnh hưởng đến cách mà mọi thứ biến đổi, cụ thể trong trường hợp vở [Superstrat[ là thể hiện sự giao thoa, cùng với những điệu nhảy truyền thống của châu Phi đến Hoa Kỳ, châu Mỹ với những điệu nhảy hip hop, sau đó châu Âu cũng học hỏi và cũng có làn sóng nhập cư từ châu Phi. Thực sự là còn cả chặng đường dài để đưa tất cả những nền văn hóa này vào đúng bối cảnh. Những nền văn hóa này vẫn lưu thông với nhau và là một phần của ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng ngày nay, bởi vì đó là những ngôn ngữ rất phong phú, chịu ảnh hưởng của rất nhiều quốc gia có chung lịch sử. RFI : Mỗi sáng tác đều có một câu chuyện. Chị kể câu chuyện của mình như thế nào trong [Superstrat[ khi múa, nhảy là một bộ môn nghệ thuật trừu tượng ? Làm thế nào truyền tải được câu chuyện của mình đến khán giả ? Anne Nguyen : Múa gần như là ngôn ngữ nguyên thủy của cơ thể. Và đối với tôi, sử dụng nhảy và múa giúp tôi giao tiếp với mọi người, vừa đầy cảm xúc, vừa ẩn dụ, triết lý và cũng mang tính xã hội hơn. Điều này còn tùy thuộc vào nơi mà mọi người muốn hiểu sự việc. Dù sao, đối với tôi, nhảy và múa thực sự mang tính phổ quát, truyền thống. Khi tìm hiểu kỹ nguồn gốc của những điệu nhảy này, người ta sẽ thấy những ảnh hưởng truyền thống. Ví dụ tôi bắt đầu với nhảy hip-hop, breakdance, đến từ châu Phi bởi vì từng có chế độ nô lệ ở Mỹ và thường thì chính những người thuộc tầng lớp này của xã hội đã sáng tạo nên những điệu nhảy đường phố đó. Vì vậy, càng quan tâm đến nguồn gốc của điệu nhảy, tôi càng bị thu hút bởi những điệu nhảy truyền thống. Chủ đề của tác phẩm là thực hiện hành trình đi tìm gốc gác đó, khai thác kho tài năng của một vũ công vừa nhảy đường phố, vừa giữ nét truyền thống châu Phi để qua đó tạo nên mối liên hệ giữa truyền thống và hiện đại. Thông điệp thực sự mà tôi muốn truyền tải, đó là chúng ta không phải lựa chọn giữa truyền thống và hiện đại, hay chối bỏ một trong hai. Mà ngược lại, phải lèo lái và tạo ra những điều tạo nên bản sắc, di sản của chúng ta và tự hào về di sản của chúng ta, để từ đó tạo nên điều gì đó với sự hiện đại và kỹ thuật mới… Song song đó cũng phải hiểu rằng có một số điều hơi bảo thủ, hơi bất biến và chúng ta không nên cố gắng biến đổi chúng quá nhiều. Trong [Superstrat[ có một góc nhìn về truyền thống, về hiện đại để đi hướng đến bản sắc hiện đại, cho thấy chúng ta là con người của ngày hôm nay, của những năm 2025. Chúng ta chứa đầy những ảnh hưởng từ tổ tiên, nhưng cũng từ những điều đã được biến đổi trong quá trình di cư,...
    続きを読む 一部表示
    12 分
  • François Bibonne và hành trình nối tiếp “Once Upon a Bridge in Vietnam”
    2025/07/11
    Sau thành công không ngờ đến của bộ phim tài liệu “Once Upon a Bridge in Vietnam” ( Ngày xưa có một chiếc cầu ở Việt Nam ), đạo diễn trẻ mang hai dòng máu Pháp Việt François Bibonne sắp tái ngộ khán giả với phần hai của bộ phim "Once Upon a Bridge II". Bibonne hy vọng bộ phim sẽ được trình làng vào tháng 11 năm nay. Ban đầu Bibonne dự định làm một bộ phim về bóng đá Việt Nam, nhưng cuối cùng anh vẫn lồng vào đó âm nhạc, phong cảnh, văn hóa Việt Nam, như là sự tiếp nối của một cuộc hành trình tìm về nguồn. Phạm vi của "Once Upon a Bridge II" được mở rộng hơn, hành trình trải dài từ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định đến những vùng xa xôi như Bình Liêu (Quảng Ninh) và Pleiku. Lần này, theo lời François Bibonne, trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ từ Hà Nội, bộ phim sẽ mang tính chất cá nhân hơn, đạo diễn trở thành như là một "nhân vật chính" trong phim: “Khi làm bộ phim đầu tiên, tôi thực sự không muốn mình ở trong đó, tôi chỉ là một người quay phim. Nhưng rồi tôi nhận thấy điều mà mọi người quan tâm đó là bộ phim được hiện thân, nghĩa là có một nhân vật chính, có thể tạo ra mối liên hệ giữa tất cả các cảnh này, vì có rất nhiều chủ đề khác nhau, làm sao có thể diễn đạt, dung hòa tất cả những mối liên hệ này. Nói chung, đây là sự trở lại với nguồn gốc Việt Nam, thông qua nhân vật tôi, vì bà tôi là người Việt Nam, nên tôi là người Pháp gốc Việt. Và tôi tạo ra mối liên hệ giữa tất cả những câu chuyện nhỏ mà chúng ta tìm thấy trong mọi bộ phim tài liệu, đôi khi với những hình ảnh có tôi xuất hiện trong đó. Tôi cũng sẽ không xuất hiện nhiều đâu. Nhưng khi tôi làm một đoạn phim giới thiệu, tôi phải đặt mình vào cảnh một chút để kích hoạt câu chuyện, nếu không thì chỉ lồng tiếng thôi. Nhưng thực sự, ngoài bản thân tôi, tôi nghĩ nhân vật chính, đó là Việt Nam.” Như đã nói ở trên, ban đầu François Bibonne dự định làm một bộ phim tài liệu về bóng đá Việt Nam, nhưng cuối cùng anh quyết định là phim sẽ không bám vào thời sự của môn bóng tròn, mà sẽ là một bộ phim "phi thời gian tính": "Khi tôi đến Việt Nam để thực hiện dự án mới này, thực ra tôi đã bắt đầu theo dõi đội tuyển quốc gia, đã có rất nhiều trận thua vào thời điểm đó. Vì vậy, tôi hơi xuống tinh thần. Tôi vẫn muốn làm bộ phim này, nhưng nói ít hơn về đội tuyển quốc gia và thời gian đó người dân cũng bớt hồ hởi với bóng đá. Thế rồi gần đây, họ đã giành được chức vô địch Đông Nam Á. Họ có một huấn luyện viên mới là người Hàn Quốc và đã gặt hái rất nhiều thành công. Mọi người thực sự tin tưởng vào đội tuyển quốc gia và thực sự đang có một điều gì đó rất tích cực. Bối cảnh rất thuận lợi cho dự án của tôi. Thật ra dầu sao thì tôi không bị ảnh hưởng bởi thời sự, bởi vì tôi làm một bộ phim tài liệu điện ảnh hơn là một bộ phim tài liệu về các vấn đề thời sự, vì vậy có thể nói rằng, những gì tôi làm gần như là phim tài liệu hư cấu, một dự án dài hạn, mà tôi hy vọng sẽ là phi thời gian tính, bất kể các sự kiện hiện tại. Giống như bộ phim trước, đó là một bộ phim mà tôi nghĩ chúng ta cũng có thể xem sau nay, không nhất thiết phụ thuộc vào các sự kiện hiện tại." Trên con đường tìm về nguồn khi thực hiện bộ phim "Once Upon a Bridge II", đạo diễn trẻ Bibonne đã có dịp đến Hải Phòng, thành phố quê hương của người bà: “Tôi chưa từng đến đó, mặc dù thành phố Hải Phòng là nơi bà tôi sinh ra, đúng hơn bà sinh ra ở một ngôi làng nhỏ không xa Hải Phòng, nhưng là trong khu vực đó. Vì vậy, nó vẫn rất mang tính biểu tượng. Đến Hải Phòng là một trải nghiệm với nhiều cảm xúc mạnh mẽ, vì nguồn gốc của tôi là từ đó. Chứ bóng đá không liên quan gì đến bà tôi. Điều thú vị nữa là tìm thấy chính mình, trong một môi trường mà trước đó tôi không biết, và đó là điều tôi muốn khám phá thông qua âm nhạc. Nhưng tôi nghĩ rằng đây là những khám phá về khắp mọi miền đất nước, không nhất thiết phải liên quan trực ...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Pháp : 80 năm thành lập tủ truyện trinh thám Série Noire
    2025/07/04
    Tựa đề chữ vàng in trên bìa sách toàn một màu đen. Chỉ cần liếc nhìn qua, giới độc giả ghiền truyện trinh thám đều nhận ra ngay bộ sưu tập « Série Noire » của nhà xuất bản Pháp Gallimard. Năm 2025 đánh dấu đúng 80 năm ngày ra đời của tủ sách nổi tiếng Série Noire, mà bạn đọc ở Pháp thường gọi nôm na là « tiểu thuyết đen ». Tủ sách « Série Noire » ra đời vào mùa hè năm 1945, theo đề xuất của dịch giả Marcel Duhamel. Ngoài đời là bạn thân của nhà văn Jacques Prévert và thi hào Raymond Queneau, ông Duhamel đã thuyết phục nhà xuất bản Gallimard cho ra mắt một bộ sưu tập hoàn toàn mới thời hậu chiến, để giới thiệu với bạn đọc ở Pháp những tiểu thuyết trinh thám tiêu biểu của Anh-Mỹ qua việc dịch các tác giả trứ danh như Peter Cheyney, Raymond Chandler hay Don Tracy … Mãi đến 3 năm sau (1948), theo sáng kiến của giám đốc điều hành nhà xuất bản Claude Gallimard, bộ sưu tập này mới bắt đầu phát triển mạnh, tăng số lượng bản in cũng như các tựa sách phát hành mỗi năm. Nhờ vào sự hưởng ứng của bạn đọc, tủ truyện « Série Noire » đã thành công nhanh chóng. Hơn một ngàn đầu sách được xuất bản trong 2 thập niên đầu tiên, mỗi năm sách đều bán được hơn cả triệu bản. Thành công của thể loại văn học này lúc đầu luôn gắn liền với trào lưu phim trinh thám của Mỹ, còn được gọi là « film noir » chủ yếu nói về các vụ án và tội phạm, thế giới băng đảng và xã hội đen. Trong thời hậu chiến (1945-1952) các rạp chiếu phim Pháp chủ yếu khai thác phim trinh thám do Hollywood sản xuất từ những năm trước, nhưng vì đang có chiến tranh, khán giả Pháp chưa có dịp xem. Kể từ năm 1953 trở đi, làng phim Pháp mới bắt đầu khai thác mạnh mẽ dòng phim này. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, nhà phê bình kiêm sử gia Alban Cerisier cho biết, ngay từ những năm 1950, tủ sách « Série Noire » đã gợi hứng cho các đạo diễn Pháp thực hiện nhiều bản phóng tác, đưa các bộ tiểu thuyết đen lên màn ảnh rộng, tạo ra một sự hợp tác chặt chẽ, vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay : « Đúng vậy, đó là một mối quan hệ tuyệt vời, góp phần làm nên tên tuổi và uy tín của bộ sưu tập Série Noire. Mối quan hệ giữa tủ sách trinh thám và màn ảnh lớn đã tồn tại trong nhiều thập niên qua. Khi mới được thành lập, tủ sách này chủ yếu quảng bá các tiểu thuyết “đen” và dòng phim trinh thám theo kiểu Mỹ. Trong giai đoạn này, phải kể đến phim The Maltese Falcon (Chim ưng Malta) với Humphrey Bogart trong vai chính, This gun for hire (Kẻ giết mướn) với Alan Ladd và Veronica Lake. Những thập niên sau đó, có The Unseen (Sát thủ giấu mặt) và nhất là The Big Sleep (Giấc ngủ ngàn thu), dựa theo tiểu thuyết của nhà văn Raymond Chandler qua hai phiên bản, với Humphrey Bogart, cũng như Robert Mitchum trong vai chính. Thời hậu chiến, làng phim Pháp chủ yếu khai thác phim Mỹ. Năm 1953 đánh dấu một cột mốc quan trọng, khi điện ảnh Pháp trở nên tự lập hơn, bắt đầu chuyển thể các bộ tiểu thuyết thành phim trinh thám. Đó là trường hợp của bộ phim "Touchez pas au grisbi" (tạm dịch Coi chừng chết … vì tiền) của đạo diễn Pháp Jacques Becker. Đây là phiên bản điện ảnh của quyển tiểu thuyết đen cùng tên của Albert Simonin. Bộ phim đánh dấu ngày trở lại của Jean Gabin sau nhiều năm vắng bóng và sự xuất hiện lần đầu tiên của Lino Ventura trên màn ảnh lớn. Trong mắt giới phê bình, "Touchez pas au grisbi” là tác phẩm khởi đầu cho trào lưu quay các bộ phim noir theo kiểu Pháp, hầu hết các tên tuổi lớn sau này đều tham gia như Jeanne Moreau, Jean-Paul Belmondo hay Alain Delon … » Nhìn lại tủ truyện « Série Noire », trong số cả chục ngàn quyển tiểu thuyết được phát hành, đã có hơn 500 đầu sách đã được chuyển thể lên màn ảnh. Có thể nói là mỗi thập niên đều có những bộ phim ăn khách, phóng tác từ tiểu thuyết trinh thám. Theo sử gia Alban Cerisier, những thập niên sau 1950, đã cho ra đời nhiều tác phẩm quan trọng của những tên tuổi hàng đầu trong làng điện ảnh : « Kể từ sau những năm 1950, dòng phim trinh thám hình sự đã có một...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Nét thanh lịch kinh điển của hiệu thời trang Lanvin
    2025/06/27
    Lanvin là một trong những hiệu thời trang lâu đời nhất của Pháp, được nhà thiết kế Jeanne Lanvin thành lập tại Paris vào năm 1889, trước Chanel (1910) và Dior (1947). Tuy là người tiên phong, Jeanne Lanvin lại thường nằm trong cái bóng của Chanel hoặc Dior, có lẽ cũng vì Lanvin không giỏi bằng hai công ty kia trong cách thu hút giới truyền thông. Gần 140 năm sau ngày được thành lập, hiệu thời trang Lanvin trở thành chủ đề quyển sách của nhà văn Jérôme Picon, do nhà xuất bản Flammarion phát hành. Mang tựa đề « Jeanne Lanvin », quyển tiểu sử làm sống lại gương mặt tiên phong của ngành thời trang hạng sang của Pháp, hành trình sáng tạo của một phụ nữ có nếp sống kín đáo nhưng lại có tầm nhìn xa. Sinh trưởng tại Paris (1867-1946), Jeanne Lanvin từ thời còn nhỏ đã đam mê may vá, thêu thùa. Bà vào nghề làm nón mũ và phụ kiện thời trang từ năm 13 tuổi. Năm 1889 là cột mốc quan trọng trong đời bà Lanvin. Nhờ biết làm ăn dành dụm, bà mở cửa hàng đầu tiên trên dãy phố Faubourg Saint - Honoré vào năm 22 tuổi, từ mũ nón mở rộng sang thiết kế áo quần trẻ em, rồi sau đó là thời trang phái nữ. Sau hai thập niên hoạt động trong nghề, Jeanne Lanvin chính thức được kết nạp làm thành viên Nghiệp đoàn các nhà thiết kế Pháp (do Charles Frederick Wortk đề xướng) : Bộ sưu tập thời trang Lanvin năm 1909 phong phú da dạng, bao trùm mọi lứa tuổi chứ không còn đơn thuần là áo quần dành riêng cho một đối tượng. Trong số những khách hàng quen thuộc của Lanvin có nhà văn Anna de Noailles, diễn viên kiêm ca sĩ Yvonne Printemps hay kịch tác gia Sacha Guitry ... Cũng chính Jeanne Lanvin đã thiết kế bộ y phục màu xanh lục cho văn hào Pháp Edmond Rostand, tác giả của Cyrano de Bergerac, khi ông gia nhập Hàn lâm viện. Trả lời phỏng vấn ban Pháp ngữ RFI, nhà văn Jérôme Picon chuyên nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật, từng viết tiểu sử của các văn hào Marcel Proust và Victor Hugo, cho biết lý do nào ông thực hiện một quyển sách về bà Jeanne Lanvin: Tôi đã có ý tưởng viết về bà Lanvin, sau khi có cơ hội đọc và xem nhiều tài liệu quan trọng trong một kho lưu trữ đã có từ lâu nhưng hầu như vẫn còn nguyên vẹn. Kho tài liệu này phản ánh những chuyển biến của ngành thời trang cao cấp qua nhiều thập niên, nhưng không hiểu vì lý do nào mà cho tới giờ vẫn chưa được khai thác nhiều. Quan trọng hơn nữa chính là phong cách của Jeanne Lanvin, một phụ nữ với cuộc sống kín đáo, nhưng lại có khá nhiều giai thoại lý thú để kể về bà. Trước hết đó là câu chuyện khá phi thường về hiệu thời trang do một phụ nữ sáng lập. Trước khi các thuật ngữ chuyên ngành tiếp thị ra đời, bà Jeanne Lenvin đã biết tiếp cận những khách hàng khá giả giàu có, dựa vào nhu cầu của họ để sáng chế ra nhiều dòng sản phẩm khác nhau. Từ nón mũ và áo quần trẻ em, bà chuyển sang thiết kế thời trang phái nữ cũng như phái nam. Bên cạnh đó, bà còn cho sản xuất nước hoa, phân phối tủ giường, bàn ghế và dòng sản phẩm trang trí nội thất sang trọng ...Vào giữa những năm 1920, Paris là tủ kính trưng bày các sản phẩm thời trang, trở thành biểu tượng của sự thanh lịch và là nơi xuất phát của nhiều trào lưu thẩm mỹ. Trong bối cảnh ấy, Jeanne Lanvin đã cố gắng để lại dấu ấn của mình. Tuy không sản xuất đại trà, không khuếch trương thành một tập đoàn lớn, Lanvin đã làm ăn thành công, thực hiện được tất cả những mong muốn vào thời của mình. Nói như vậy, phải chăng Lanvin là một trong những gương mặt tiên phong của ngành thời trang cao cấp của Pháp đầu thế kỷ XX ? Vai trò của Jeanne Lanvin có quan trọng như Elsa Shiaparelli hay Coco Chanel ? Nhà văn Jérôme Picon nhận xét : Quả thật Jeanne Lanvin là một trong những người đi đầu ngành thời trang, thậm chí ta có thể nói rằng bà Lanvin đã mở đường cho lớp đi sau, trong đó có Coco Chanel (1910) và Elsa Shiaparelli (1927). Bà Lanvin đã thành công trong việc xây dựng một thế giới xung quanh các bộ sưu tập thời trang của mình, đặc biệt là trong những năm 1920, bà đã có một tầm nhìn xa, tìm cách đáp ứng nhu cầu của khách hàng trên ...
    続きを読む 一部表示
    9 分