エピソード

  • #151_Sáng tháng 5 | Tố Hữu
    2025/05/19

    "...Người là Cha, là Bác, là Anh
    Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ
    Người ngồi đó, với cây chì đỏ
    Vạch đường đi, từng bước, từng giờ..."

    続きを読む 一部表示
    4 分
  • #150_Nước non ngàn dặm | Tố hữu
    2025/04/30

    Chào mừng 50 năm giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Giang sơn thu về một mối. Bắc - Nam sum họp một nhà.

    Mình chỉ muốn nói là mình yêu Việt Nam vô cùng. Trân trọng và biết ơn các thế hệ đi trước đã hi sinh cho hòa bình hôm nay.

    "...Lá cờ, nửa đỏ nửa xanh
    Màu đỏ của đất, màu xanh của trời
    Ngôi sao, chân lý của đời
    Việt Nam, vàng của lòng người hôm nay.


    Càng nhìn ta, lại càng say
    Biển Đông lồng lộng gió lay ngọn cờ...
    Ôi, bà mẹ tóc bạc phơ
    Vườn riêng, mẹ hái trái dừa cho con
    Má già với trái dừa non
    Bởi thơm lòng má, nên ngon lòng dừa.
    Dẫu còn cay đắng, nắng mưa
    Miền Nam mát ngọt, hồn ta vẫn đầy!

    ..."

    続きを読む 一部表示
    16 分
  • #149_TRUYỆN KIỀU (TRỌN BỘ) | NGUYỄN DU.
    2024/02/07
    Tiếng Việt đẹp quá!! Quá đẹp...Đó là cảm nhận xuyên suốt trong những khoảng thời gian khác nhau mình đọc Truyện Kiều. Dù là ở tuổi mười mấy chưa hiểu sự đời ở lần đầu tiên tiếp xúc Truyện Kiều trong bậc học Trung học cơ sở, đến khi lớn hơn một chút, hiểu chuyện hơn một chút, dù sự đời thì chẳng bao giờ mà hiểu hết được với một cô gái còn chưa hiểu nổi bản thân mình. Nhưng có một chân lý mình tin tưởng ở Truyện Kiều đó là tình người, là ở hiền sẽ gặp lành dù cuộc sống sẽ có nhiều trắc trở đấy, là dù qua bao sóng dập gió vùi nhưng tấm lòng tốt đẹp vẫn vẹn nguyên như buổi ban đầu... Nói về Truyện Kiều, là một đề tài có thể nói là không bao giờ cạn, bởi giá trị của tác giả và tác phẩm. Đó là lịch sử, là thời đại, là văn hóa xã hội, là tôn giáo,... và là đạo đức con người vẫn còn giá trị đến ngày nay. Truyện Kiều sử dụng khá nhiều từ cổ và các điển tích, mình đã chú thích và phân tích thêm ở 22 số (127 đến 148), tương ứng với 22 chương, bạn ghé nghe và xem phần chú thích để hiểu thêm về kiệt tác này nhé. Nguyễn Du không chia Truyện Kiều theo chương hồi, các nhà nghiên cứu văn học căn cứ vào nội dung Truyện Kiều cũng như diễn biến của Kim Vân Kiều Truyện - vốn là một tiểu thuyết chương hồi, để chia Truyện Kiều làm 22 chương để bạn đọc tiện theo dõi. Mời bạn nghe trọn bộ 3254 câu thơ lục bát Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. ----- Poem Nguyen | Tiểu Thơ, Instagram: @poemypodcast Email: poemsnguyen@gmail.com - Nhạc nền: Moonlight Sonata.
    続きを読む 一部表示
    2 時間 34 分
  • 148_Truyện Kiều | Đoàn tụ_Hồi XXII_Hết. (Câu 3031-3254) | Nguyễn Du.
    2024/02/05
    Đoàn tụ. Hai từ thiêng liêng và bình yên biết nhường nào. Thúy Kiều cuối cùng cũng đoàn tụ bên gia đình, cùng lời nguyện ước bên vầng trăng vằng vặc giữa trời hôm nao. "Mười lăm năm mới bây giờ là đây. Tình duyên ấy hợp tan này. Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao” Những ngày cuối năm, chúc bạn sớm đoàn tụ cùng gia đình, cùng người thương. * Chú thích: 1. Trần tạ: Bày tỏ lòng tạ ơn. 2. Từ bi: Thương người, chữ của nhà Phật. 3. Tái thế tương phùng: Gặp nhau ở đời thứ hai, ý nói Kiều như chết đi sống lại để gặp gỡ gia đình. 4. Trùng sinh: Đẻ lại lần thứ hai, ý nói làm cho mình sống lại, chỉ ơn của Giác Duyên. 5. Bỉ thử nhất thì: Do câu “Bỉ nhất thì, thử nhất thì”, ý nói xưa kia là một thì, bây giờ là một thì, hoàn cảnh khác nhau không thể câu nệ được. 6. Tòng quyền: Theo quyền biến, ý nói phải thay đổi việc làm cho thích nghi. 7. Lập am: Dựng chùa, ý nói sẽ làm ngôi chùa riêng, mời Giác Duyên về ở chung. 8. Bình địa ba đào: Sự bất trắc trong đời người, chẳng khác gì đất bằng lại nổi sóng. 9. Quả mai ba bảy: Kinh thi: “Phiếu hữu mai, kỳ thực nhất hề... Phiếu hữu mai, kỳ thực tam hề...” (Mơ rụng xuống, quả còn bảy phần..., Mơ rụng xuống, quả còn ba phần), ý nói tiết xuân đã muộn nên kíp lo liệu hôn nhân. Ở đây Thuý Vân muốn nói Kiều vẫn còn vừa tuổi đi lấy chồng. 10. Gia thất: “Tả truyện” có câu: “Nam hữu thất, nữ hữu gia” (Con trai có vợ, con gái có chồng). Gia thất duyên hài: đẹp duyên vợ chồng. 11. Hoa thơm phong nhuỵ, trăng vòng tròn gương: Trinh tiết còn nguyên vẹn. 12. Đuốc hoa: Ý nói nếu trinh tiết còn nguyên thì đêm hợp hôn mới không hổ thẹn. 13. Trần cấu: Bụi nhơ. 14. Cầm sắt: Kinh thi: “Thê tử hảo hợp như cổ sắt cầm” (Vợ con hoà hợp như gảy đàn sắt, đàn cầm). Người sau bèn dùng hai chữ cầm sắt để chỉ tình vợ chồng. 15. Cầm cờ: Khi bầu bạn gặp nhau thường gảy đàn, đánh cờ làm vui, nên hai chữ cầm kỳ để chỉ tình bạn hữu. Câu này ý nói nên đem tình vợ chồng đổi làm tình bầu bạn. 16. Quyền: Quyền biến, nghĩa là theo hoàn cảnh mà thay đổi các xử sự. 17. Chấp kinh: Giữ theo đạo thường, lê thường. 18. Chàng Tiêu: Do chữ Tiêu lang, tiếng xưng hô của người con gái đối với tình nhân. Tình sử chép Thôi Giao đời Đường có người yêu bị người ta bắt bán cho quan Liên suý. Chàng buồn rầu làm bài thơ, trong có câu: “Hầu môn nhất nhập thâm như hải, Tòng thử Tiêu lang thị lộ thân” (Cửa hầu vào rồi thấy sâu như biển, Từ nay chàng Tiêu là người khách qua đường). Câu này ý nói nỡ nào lại hững hờ không nhận người yêu cũ hay sao. 19. Bi hoan mấy nỗi, đêm chầy trăng cao: Kim Trọng, Thuý Kiều cùng nhau kể lể những chuyện buồn, chuyện vui mãi cho đến khi đêm đã khuya, trăng đã cao. 20. Xướng tuỳ: Do câu “Phu xướng phụ tuỳ” (chồng xướng vợ nghe theo). Dùng để thay cho chữ phu phụ. 21. Thì còn em đó, lọ cầu chị đây: Nếu Kim Trọng nghĩ đến việc sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường về sau thì đã có Thuý Vân. 22. Chữ trinh còn một chút này: Kiều ngầm nói nàng sở dĩ bị cảnh ong qua bướm lại là do hoàn cảnh bắt buộc, chứ tâm hồn nàng thì vẫn trong trắng. Chữ trinh hiểu về tinh thần chứ không phải thể xác. 23. Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa: Bấy lâu đi tìm Kiều là đeo đuổi lời thề vàng đá, không phải là tìm thú trăng hoa. 24. Cao thâm: Y nói Kiều cảm tạ cái nghĩa cao ơn sâu của Kim Trọng. 25. Dương hoà: Khí dương đầm ấm của mùa xuân. 26. Duềnh quyên: Vũng nước biển sáng đẹp 27. Lam Điền: Tên một hòn núi ở tỉnh Thiểm Tây, chỗ có nhiều ngọc quý. 28. Sớm mận tối đào: Sớm ấp mận, tối ôm đào, ý nói người trăng gió, tình yêu không chuyên nhất và Kiều không phải là người như vậy. 29. Quan giai: Cấp bậc quan lại, ý nói Kim Trọng làm quan được lần lần thăng chức. 30. Thừa gia: Đảm đương việc nhà, cũng có nghĩa là sang dòng nối dõi tông đường. 31. Cù mộc: Chỉ vợ cả 32. Quế hoè: Điển tích, họ Đậu, đời Tống, có năm người con trai đều hiển đạt, Vương Đạo có câu ...
    続きを読む 一部表示
    17 分
  • 147_Truyện Kiều | Kim Trọng đi tìm Thúy Kiều_Hồi XXI (Câu 2775-3030) | Nguyễn Du.
    2024/02/03
    Sau khi trở về từ Liêu Dương, biết tin gia đình Kiều gặp tai biến, Kim Trọng càng thương Kiều hơn và không ngừng tìm kiếm Nàng suốt mười lăm năm, và cuối cùng tấm chân tình ấy cũng được báo đáp. Chú thích: 1. Lai sinh: Kiếp sau. Câu này ý nói nếu như chết mà thiêng thì kiếp sau xin đền bù lại. 2. Ván đã đóng thuyền: Ý nói Thuý Kiều bây giờ đã về tay người khác. 3. Kim hoàn: Vòng vàng, vật Kim Trọng đưa cho Thuý Kiều làm tin lúc mới gặp nhau (câu 318: “Xuyến vàng đi chiếc, khăn là một vuông”) 4. Dưỡng thân: Nuôi cha mẹ. Câu này ý nói Kim Trọng thay Kiều phụng dưỡng vợ chồng Vương ông như cha mẹ mình. 5. Lâm Thanh: Mã Giám Sinh nói dối là quê ở đó, nên Kim Trọng mới nhiều lần sai người đến đây hỏi thăm tin Kiều. 6. Chế khoa: Khoa thi do ý vua mà mở ra, khác với khoa thi thường lệ. 7. Bảng xuân: Do chữ xuân bảng, bảng thi về mùa xuân. Chiếm bảng xuân tức là thi đỗ. 8. Cửa trời: Do chữ thiên môn, tức là cửa nhà vua. 9. Đường mây: Do chữ vân lộ hay thanh vân lộ, ý nói đường công danh, sĩ hoạn. 10. Ngõ hạnh: Tức Hạnh Viên ở kinh đô Tràng An. Đời nhà Đường các tân khoa tiến sĩ được dự tiệc và xem hoa ở đây. 11. Dặm phần: Do chữ phần du mà ra, ý nói quê nhà. Câu này tả cảnh vinh hoa của Kim, Vương khi thi đỗ và về vinh qui. 12. Chu tuyền: Hay chu toàn, làm cho được tròn vẹn. Câu này ý nói Vương Quan làm rể họ Chung. 13. Ngọc đường: Đời Tống Thái Tông, vua đề ở dinh Hàn Lâm ba chữ “Ngọc đường thự”. Đời sau bèn dùng những chữ “Kim mã ngọc đường” để nói chung cảnh quan gia phú quý. 14. Ngoại nhậm: Làm quan ở cõi ngoài (không phải ở huyện nhà) 15. Thê nhi: Vợ con. 16. Cầm đường: Phụ Tử Tiện thời Xuân Thu làm quan huyện, thường hay gảy đàn, người sau bèn gọi đinh quan huyện là cầm đường. 17. Tiếng hạc, tiếng đànTriệu Biên đời Tống, đi làm quan, chỉ đem theo một con hạc và một cây đàn, tỏ ra người liêm khiết cao thượng. 18. Thanh khí: Câu này ý nói Thuý Vân, Thuý Kiều là hai chị em ruột, cho nên dễ cảm thông với nhau. 19. Giai âm: Tin tốt. 20. Thăng đường: Ra ngồi làm việc ở công đường. 21. Kiên trinh: Kiên quyết giữ gìn trinh tiết. 22. Liều mình: Chỉ việc Thuý Kiều tự vẫn lúc mới đến nhà Tú Bà. 23. Phải lừa: Chỉ việc sợ bị Sở Khanh lừa đưa đi trốn. 24. Vân mồng: Tiếng cổ, nghĩa là tin tức, manh mối. 25. Tiêu hao: Cùng nghĩa với tăm hơi, tin tức 26. Bình bồng: Bình: bèo; bồng: cỏ bồng. Hai vật này thường hay trôi nổi theo nước và gió. Ở đây để chỉ tấm thân phiêu bạt của Kiều. 27. Đỉnh chung: Đỉnh: cái vạc để nấu thức ăn; chung: cái chuông để đánh báo hiệu giờ ăn. Đỉnh chung ở đây dùng để chỉ cảnh vinh hiển phú quý. 28. Treo ấn từ quan: Treo trả cái ấn tại công đường mà bỏ về, không làm quan nữa. 29. Năm mây: Do chữ ngũ vân, ý nói tờ chiếu có vẽ mây năm sắc. 30. Chiếu trời: Là chiếu nhà vua 31. Khâm ban: Chữ khâm nguyên có nghĩa là kính, sau được dùng để chỉ nhà vua. Ví dụ như nói khâm sai, khâm định,... 32. Sắc chỉ: Tờ sắc ban bố mệnh lệnh của nhà vua 33. Cải nhậm: Đổi đi làm nơi khác. 34. Nam Bình: Tên huyện, thuộc tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc), ở phía trên sông Tiền Đường và Hàng Châu. 35. Châu Dương: Tức Dương Châu, tên phủ thuộc tỉnh Giang Tô (Trung Quốc), ở phía trên sông Tiền Đường và Hàng Châu. 36. Phó quan: Đi đến chỗ làm quan, đi nhậm chức. 37. Phúc Kiến, Chiết Giang: Hai tỉnh phía đông nam Trung Quốc, nơi cát cứ cũ của Từ Hải. 38. Hàng Châu: Tên phủ, nay là thủ phủ tỉnh Chiết Giang. 39. Thất cơ: Để lỡ cơ mưu, làm sai quân cơ, tức là bị mắc mưu địch. 40. Thu linh: Thu khí thiêng, ý nói là chết. 41. Thổ tù: Người tù trưởng ở địa phương, cùng như chữ thổ quan. 42. Gieo ngọc, trầm châu: Ngọc và châu thường được dùng để chỉ cái đẹp, cái quý giá. “Gieo ngọc trầm châu” ở đây chỉ việc Thuý Kiều trầm mình. 43. Chiêu hồn: Gọi hồn. 44. Thiết vị: Đặt bài vị viết tên hiệu người chết mà thờ cúng. 45. Đàn tràng: Đàn làm lễ giải oan. 46. Cánh hồng: Cánh chim hồng. Cũng hiểu là phong thái nhẹ nhàng của cô gái ...
    続きを読む 一部表示
    17 分
  • 146_Truyện Kiều | Kiều mắc mưu Hồ Tôn Hiến_Hồi XX (Câu 2439-2774) | Nguyễn Du.
    2024/02/01
    Hồi 20, kết thúc 15 năm lưu lạc đầy đau thương và oan khốc của Thúy Kiều. Đây cũng là hồi đúc kết triết lý nhân sinh quan sâu sắc nhất của truyện Kiều. Đó là tư tưởng "tôi trung không thờ hai vua", là duyên phận, là tĩnh nghĩa, là giữ trọn lời thề sắt đá từ những buổi ban đầu... Chú thích: 1. Binh uy: Uy thế của quân đội. Câu này ý nói uy thế của quân Từ Hải từ đó vang dội trong ngoài như sấm dậy. 2. Huyện thànhThành trì của một huyện. Câu này ý nói quân Từ Hải đánh chiếm được năm huyện phía nam Trung Quốc. 3. Giá áo túi cơmCái giá để mắc áo, cái túi để đựng cơm ý nói người vô dụng hèn kém. 4. Cô quả: Cô và quả là tiếng tự xưng của bọn vua chúa đời xưa. Bá vương cũng nghĩa như vua chúa. Câu này ý nói Từ Hải cũng xưng cô xưng quả, làm vương làm bá một phương chứ không kém gì ai. 5. Tranh cường: Đua tranh về sức mạnh. Câu này ý nói trước ngọn cờ của Từ Hải không ai dám chống lại. 6. Hùng cứ: Lấy sức mạnh mà chiếm giữ. 7. Hải tần: Đất ven biển. 8. Kinh luânNghĩa đen là quay tơ và bện tơ, người ta thường dùng để nói tài sắp xếp chính sự, kinh bang tế thế 9. Đẩy xe: Do chữ thôi cốc (đẩy bánh xe). Đời xưa, khi sai tướng đi đánh giặc, vua thường tự mình đẩy vào xe của viên tướng một cái, để tỏ ý tôn trọng. Câu này ý nói vua nhà Minh sai Hồ Tôn Hiến đi đánh Từ Hải là một việc rất quan trọng. 10. Tiện nghi bát tiễu: Tuỳ tiện mà đánh đẹp. 11. Đổng nhungTrông coi, đốc suất việc quân. 12. Chiêu anKêu gọi chiêu dụ cho giặc đầu hàng. 13. Thanh vânMây xanh, người xưa thường dùng để chỉ con đường công danh. 14. Chiếc bách: Do chữ bách châu có nghĩa là mảnh thuyền, ý nói thân phận lênh đênh. 15. Bình thành: Do chữ “địa bình thiên thành” ở Kinh thư, ý nói nhà vua sửa sang việc nước cho trời đất được bằng phẳng. 16. Vô Định: Tên một con sông ở biên thuỳ tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Ngày xưa ở con sông ấy đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh giữa người Hán và người Hồ, làm cho rất nhiều người bị chết. 17. Hoàng Sào: Một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa cuối đời Đường, đã từng vây hãm kinh đô Trường An, tung hoành trong mười năm trời, sau bị thủ hạ giết chết. 18. Thúc giáp: Bó áo giáp lại. 19. Giải binh: Cho quân đội nghỉ ngơi không chiến đấu nữa 20. Thành hạ yêu minh: Cùng nhau ăn thề dưới thành để tỏ ý không làm hại nhau và thật thà tuân theo đúng những điều đã ước hẹn. 21. Vương sư: Quân của nhà vua, tức quân của Hồ Tôn Hiến. 22. Quyết kế thừa cơQuyết định cái mưu là nhân cơ hội Từ Hải trễ tràng việc quân để đánh. 23. Lễ tiên binh hậu: Phía trước thì đàn nghi lễ để chiêu hàng, phía sau thì phục sẵn binh mã để phản công. 24. Khắc cờ: Ấn định kỳ hạn. 25. Tập công: Đánh úp. 26. Chiêu phủ: Kêu gọi, vỗ về, để cho quy hàng. 27. Tiên phongToán quân đi trước. Câu này ý nói Hồ Tôn Hiến lập mưu cho kéo cờ “chiêu phủ” đi trước. 28. Đại quan lễ phục: Từ Hải mặc theo phục sức của vị quan lớn không mặc binh phục. 29. Dòng thu: Nước mắt 30. Oan khí tương triền: Cái oan khí ức vấn vít lại với nhau. Từ Hải và Thuý Kiều hình như cùng chung mối uất ức. 31. Binh cáchBinh là binh khí, cách là áo giáp và mũ đầu mâu. Người ta thường dùng hai chữ binh cách để chỉ cuộc binh đao chinh chiến. 32. Thành toán miếu đườngMưu chước đã sắp đặt sẵn ở nơi tốn miếu triều đường. Câu này ý nói đành hay triều đình đã có mưu kế sẵn, nhưng cũng nhờ lời nàng nói giúp mới nên việc. 33. Bách chiến: Trăm trận đánh, ý nói Từ Hải là một người dạn dày trong chiến trận. 34. Phu quý phụ vinh: Chồng làm nên quan sang thì vợ cũng được vinh hiển. 35. Ngang tàng: Cũng có nghĩa như hiên ngang, ý nói người tung hoành ngang trời dọc đất. 36. Tiện thổ: Miếng đất xấu. 37. Cảo táng: Chôn một cách sơ sài, không có khâm liệm quan quách gì. 38. Di hình: Di hài. 39. Hạ công: Mừng công thắng trận. 40. Thị yến: Hầu hạ bên bàn tiệc. 41. Hương hoả ba sinh: Do chữ “tam sinh hương hoả”, ý nói duyên nợ vợ chồng từ kiếp xưa để lại. 42. Dây loan: Chỉ...
    続きを読む 一部表示
    19 分
  • 145_Truyện Kiều | Kiều báo ân, báo oán_Hồi XIX (Câu 2254-2438) | Nguyễn Du.
    2024/01/31

    Với tấm lòng trượng nghĩa của một anh hùng hào kiệt: “Anh hùng tiếng đã gọi rằng: Giữa đường dẫu thấy bất bằng mờ tha”. Từ Công đã giúp vợ hiền bán ân báo oán rạch ròi. Thế là những thân phận thấp bé mà lương thiện như Mụ già, Sư Trưởng hay Thúc Lang đều được Kiều báp đáp ân tình và những kẻ ác Tú Bà, Bạc Hạnh, Mã Giám Sinh, Sở Khanh đều phải chịu hậu quả cho những việc ác đã làm.

    *Chú thích: 1. Phu nhân: Tiếng xưng hô đối với vợ các người tôn quý, đây chỉ Thuý Kiều. 2. Cung nga: Gái hầu trong cung, cung nữ. 3. Thế nữ: Loại gái hầu kém cung nữ một bậc, ở đây tác giả dùng những danh từ ấy là có ý xem Từ Hải như một vị đế vương. 4. Phượng liễn, loan nghi: Xe, kiệu và đồ nghi trượng có chạm khắc thêu vẽ hình loan, chim phượng. 5. Hoa quan: Mũ hoa. 6. Hà y: Áo mầu hồng như ràng mặt trời. 7. Hoả bài: Cái thẻ bài hoả tốc, cầm đi trước để báo tin. 8. Nam đình: Triều đình phương nam do Từ Hải lập ra. 9. Đại doanh: Doanh trại lớn, nơi đóng đại quân của Từ Hải. 10. Thân nghênh: Tự mình đích thân ra đón. 11. Cân đai: Cân: khăn (mũ); đai: cái đai vòng quanh áo lễ. Câu này ý nói Từ Hải lúc này ăn mặc không phải như lần gặp Kiều khi còn hàn vi, mà đã ăn mặc theo cung cách đế vương. 12. Cá nước duyên ưa: Do câu “ngư thuỷ duyên hài”, ý nói vợ chồng đẹp duyên với nhau. 13. Trướng maiTrướng có thêu hoa mai, chỉ phòng nằm của vợ chồng. 14. Chàm đổ: Quá sợ hãi, khiếp đảm đến mức mặt biến sắc xanh như màu xanh chàm. 15. Dẽ run: Do câu thành ngữ “Sợ run như dẽ” chỉ người sợ hãi run lẩy bẩy. Một số tài liệu phiên là “giẽ giun”, không đúng. Dẽ là loài chim hay ăn giun, nên còn gọi là dẽ giun. Chim này có tập tính là thân mình liên tục cử động: đầu gật, đuôi giật, mình thì rung rung theo nhịp bước chân, khiến người ta có cảm giác chúng thường run lẩy bẩy, đặc biệt là khi chim trống quyến rũ chim mái. Dân gian lẫn lộn từ “giun” và từ “run” nên mới đặt ra câu thành ngữ trên, cũng là một cách chơi chữ. 16. Sâm, Thương: Sao Hôm và sao Mai, không bao giờ cùng xuất hiện, chỉ sự xa cách. 17. Phiếu mẫu: Hàn Tín thuở hàn vi đi câu dưới thành, một hôm đói gặp một bà cụ già giặt quần áo thuê (phiếu mẫu), thương tình cho ông một bữa cơm. Sau Hàn Tín giúp Lưu Bang làm đến Tề vương, tạ ơn bà một ngàn lạng vàng 18. Thiên tải nhất thì: Ngàn năm có một lần, ý nói dịp hiếm có. 19. Quốc sĩ: Kẻ sĩ tài giỏi có tiếng trong nước. 20. Thâm tạ: Tạ ơn một cách sâu sắc. 21. Việt: Một xứ ở đông nam Trung Quốc. 22. Tần: Một xứ ở bắc Trung Quốc. Kẻ Việt người Tần có nghĩa là cách biệt xa xôi, bổ sung cho ý trên.

    Nguyễn Du không chia Truyện Kiều theo chương hồi, các nhà nghiên cứu văn học căn cứ vào nội dung Truyện Kiều cũng như diễn biến của Kim Vân Kiều Truyện - vốn là một tiểu thuyết chương hồi, để chia Truyện Kiều làm 22 chương để bạn đọc tiện theo dõi.

    ----- Poem Nguyen | Tiểu Thơ, Instagram: @poemypodcast Email: poemsnguyen@gmail.com

    続きを読む 一部表示
    11 分
  • 144_Truyện Kiều | Kiều gặp Từ Hải_Hồi XVIII (Câu 1915-2034) | Nguyễn Du.
    2024/01/29
    Hồi 18, Sau khi bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư, Kiều trú chân nơi am mây với sư Giác Duyên giàu lòng thương người. Nhưng chẳng được bao lâu, Kiều gặp Bạc Hạnh, đều là phường buôn phấn bán hoa như Tú Bà và một lần nữa, Kiều lại bị lừa vào thanh lâu. Nhưng rồi, cũng trong chương này, Truyện Kiều cho ta một niềm tin về “Ở hiền gặp lành”. Kiều đã gặp được Từ Hải: "Anh hùng tiếng đã gọi rằng. Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha." Để rồi cho ta một cái kết đẹp với: "Trai anh hùng, gái thuyền quyên. Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng" Chú thích: 1. Chiêu Ẩn: Tên ngôi chùa, nghĩa là chiêu nạp những người ẩn dật. 2. Hằng Thuỷ: Tên hiệu một vị sư nữ khác mà Kiều mạo xưng là thầy học mình. 3. Hậu tình: Tình nghĩa đối xử hậu hĩ, thân mật. 4. Am mây: Do chữ vân phòng, chỗ ở nhà sư ở. 5. Vẻ ngânÁnh bạc, ánh trăng sáng như bạc. 6. Đàn việt: Người đứng ra bố thí, thường thường để chỉ người có công với nhà chùa, hay người đi vãn cảnh chùa. 7. Cửa giàTiếng Phạn gọi chùa là già lam. Ở đây ý nói ngồi chờ nước đến chân rồi mới nhảy là khờ dại. 8. Đồng môn: Cùng học một thầy, một trường, ý nói Bạc bà cũng một phường chủ lầu xanh như Tú bà. 9. Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa: Tục ngữ: “Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa”. Ở đây mượn ý ấy để nói Thuý Kiều đã mang tiếng trốn chúa và ăn cắp, thế nào cũng bị người ta dị nghị. 10. Oan giaBạc bà địa đặt ra mà nói Kiều là một oan gia kiếp trước vào nhà mình để chực gây tai hoạ cho mình. 11. Phá gia: Phá nhà. 12. Xe dâyCũng như xe tơ, nghĩa là lấy chồng. 13. Thành thân: Làm lễ hợp hôn, thành vợ chồng. 14. Châu Thai: Chỗ Bạc Hạnh buôn bán, thuộc tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc). 15. Phải cung, rày đã sợ làn cây cong: Cổ ngữ: “Thương cung chi điểu, kiến khúc mộc nhi cao phi”, nghĩa là con chim đã bị thương vì cung thì thấy cái cong cũng sợ mà bay cao. 16. Sở cầu: Cầu đến, hỏi đến, ý nói muốn cưới làm vợ 17. Tâm minh: Lấy lòng thực mà thề với nhau 18: Thành hoàng, Thổ công: Ý nói Bạc Hạnh thề rằng nếu mình không tốt với Kiều thì xin thành hoàng, thổ công chứng giám. 19. Lễ tơ hồng: Tức là Nguyệt lão, vị thần xe dây cho người nên vợ nên chồng. 20. Hành việnTên gọi khác của nhà chứa. 21. Số hoa đào: Theo nhà thuật số đời xưa thì đào hoa làm một hung tịch, chiếu vào cung mệnh con trai thì bệnh tật, chiếu vào cung mệnh con gái thì phải làm gái thanh lâu. 22. Hồng quân: Chỉ con tạo. 23. Hồng quần: Cái quần đỏ, được dùng để chỉ người con gái. 24. Mặt phấn: Mặt trát phấn, ý thân phận người con gái. 25. Biên đình: Nơi biên ải xa xôi. 26. Râu hùm, hàm én, mày ngài: Tướng mại của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm. 27. Anh hào: Anh hùng hào kiệt. 28. Côn quyền: Côn là món võ đánh bằng gậy; quyền: món võ đánh bằng tay. 29. Lược thao: Mưu lược về các dùng binh, do chữ “Lục thao, Tam lược” là hai pho binh thư đời xưa mà ra. 30. Việt Đông: Chỉ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) ở về phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông. 31. Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, Nhất trạo giang sơn tận địa duy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, Chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông). 32. Tâm phúc tương cờ: Tương cờ tức tương kỳ, lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỷ chứ không phải là cái tình yêu đương trăng gió tạm bợ. 33. Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều, xưa nay nàng chưa hề xem trọng ai có phải không? 34. Cá chậu chim lồng: Chỉ hạng người tầm thường, sống trong vòng giam hãm câu thúc. 35. Bình Nguyên Quân: là Triệu Thắng, một trong thần nhà Triệu thời Chiến Quốc, được phong đất ở Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân, nổi tiếng là người hiếu khách. ...
    続きを読む 一部表示
    15 分